“Pāṇimhi ce vaṇo nāssa, Hareyya pāṇinā visaṃ; Nābbaṇaṃ visamanveti, Natthi pāpaṃ akubbato”. | "Bàn tay không thương tích, Có thể cầm thuốc độc. Không thương tích, tránh độc, Không làm, không có ác." |
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bốn Sư đã thuyết khi Ngài ngự tại Veḷuvana (Trúc Lâm), đề cập đến người thợ săn Kê Hữu (Kukkuṭamitta).
Tương truyền rằng: Trong thành Sāvatthī (Vương Xá) có một tiểu thư con nhà
triệu phú, khi nàng đến tuổi cập kê, cha mẹ cho ở riêng trong một gian phòng trên
chót tòa lầu bảy từng, và cấp cho một cô nữ tỳ để chăm sóc, gìn giữ tiểu thư.
Trong khi còn ở chung với cha mẹ như thế, tiểu thư không đi ra khỏi nhà, nhưng
một hôm, vào lúc xế chiều, tiểu thư ngó qua cửa sổ nhìn xuống đường, trông thấy
chàng thợ săn tên Kê Hữu, hằng ngày mang theo năm trăm cái bẫy, năm trăm mũi tên
vào rừng để săn dã thú nuôi mạng sống. Hôm nay anh ta bắn được năm trăm con thú
rừng, chất đầy thịt thú lên một cỗ xe bò lớn, ngồi lên gọng xe mang vào thành bán
thịt. Vừa thấy mặt anh thợ săn, tiểu thư sanh lòng ái luyến, trao thơ cho nữ tỳ cầm đi
và dặn:
- Hãy đi trao thơ nầy cho anh ấy, hãy điều tra biết được chừng nào anh ấy sẽ đi,
rồi trở về đây nhé.
Nữ tỳ đem thơ trao cho anh thợ săn, rồi hỏi:
- Chừng nào anh sẽ đi?
- Hôm nay bán hết thịt rồi, sáng mai tôi sẽ ra cửa thành nọ mà đi.
Nghe nói vậy, con nữ tỳ về học với tiểu thư. Tiểu thư tự mình sắp đặt đồ tế
nhuyễn để đem theo phòng thân, rồi sáng hôm sau mặc quần áo dơ, mang vò đi chung
với các nữ tỳ ra bến nước xách nước, tiểu thư ra khỏi nhà, đến chỗ cửa thành đứng
đón anh thợ săn đi ra. Quả nhiên, anh Kê Hữu từ sáng sớm đã đánh xe ra khỏi cổng
làng, tiểu thư chạy theo sau anh ta. Thấy vậy, thợ săn hỏi:
- Cô là con gái nhà ai, tôi chưa từng quen biết cô? Xin cô vui lòng đừng bám sát
theo tôi!
- Không phải anh quyến rũ tôi đi, mà chính tôi tự theo anh. Anh cứ làm thinh
đánh xe bò của mình đi là đủ!
Anh thợ săn ngăn cản nhiều lượt, tiểu thư bèn nói:
- Khi hạnh phúc đến gần thì không nên ngăn cản.
Được biết tiểu thư tự ý muốn về sống chung với mình, anh thợ săn để tiểu thư
lên xe và tiếp tục đi.
Ông bà Bá hộ cho tìm kiếm tiểu thư khắp nơi không thấy, nghĩ rằng con mình đã
chết, nên bày nghi lễ cúng tế vong hồn con mình.
Còn tiểu thư chung sống với thợ săn Kê Hữu, lần hồi có được bảy người con trai.
Khi con trai khôn lớn, tiểu thư lo bề gia thất cho chúng để cầm chân chúng lại.
Một hôm, vào lúc gần sáng, Đức Bổn Sư xả Thiền rồi, quán sát thế gian, nhìn
thấy anh Kê Hữu cùng với các con và dâu lọt vào võng trí của Ngài. Quán thêm nữa,
Ngài thấy tất cả những chúng sanh nầy có căn đắc Tu Đà Hườn, cho nên sáng sớm
hôm sau, Ngài đắp y và mang bát đi ngay đến khu gần bẫy sập của anh Kê Hữu.
Ngày ấy, không có con thú rừng nào mắc bẫy cả. Đức Bổn Sư lưu lại một dấu
chân tại chỗ gài bẫy rồi đi thẳng tới ngồi dưới bóng mát của một chòm cây.
Sáng sớm hôm ấy, Kê Hữu xách cung tên đi đến nơi gài bẫy, trước hết thăm các
bẫy không thấy có con thú nào mắc cả mà lại thấy dấu chân của Đức Bốn Sư lưu lại
đó. Anh ta nghĩ thầm: “Ai đã đến đây thả hết những con thú mắc bẫy như vậy cà?”.
Lần theo, anh ta thấy Đức Bổn Sư đang ngồi dưới gốc cây, anh liền cột oan trái với
Đức Bổn Sư. Anh ta nghĩ thầm: “Tên nầy đã thả hết thú của ta, ta sẽ giết chết nó”, rồi
giương cung lên. Đức Bổn Sư để yên cho anh thợ săn giương cung, nhưng không cho
anh ta buông tên đi. Anh ta buông tên không được mà bỏ tay không xuống cũng
không được, nghe hai bên cạnh sườn như nứt bể ra, từ miệng, nước miếng chảy xuống
ròng ròng, cứ đứng trân trân mà chịu khổ như vậy.
Khi ấy, các con trai của Kê Hữu ở nhà, thấy cha đi lâu về, hỏi mẹ thì bà mẹ cũng
chẳng biết nguyên do, bèn bảo:
- Các con hãy đi tìm cha con đi!
Bảy người con trai mang cung tên ra đi, thấy cha còn đứng nguyên một chỗ.
Nghĩ Đức Bổn Sư là kẻ nghịch với cha mình, cả bảy người con đều giương cung lên
và cũng đứng trân như cha của họ, do oai lực Thần thông của Đức Phật.
Bà mẹ ở nhà trông ngóng “Không biết cha con ông nầy đi sao mà lâu về vậy?”.
Bà với bảy nàng dâu cùng đi vào rừng, thấy dạng người thợ săn và bảy người con trai,
bà tự hỏi: “Mấy cha con giương cung nhắm bắn ai đây vậy?”. Khi nhìn thấy Đức Bổn
Sư bà chấp hai tay la lớn lên:
- Mấy người đừng giết cha tôi! Mấy người đừng giết cha tôi!
Thợ săn Kê Hữu nghe la, tự nghĩ: “Ác hại thay! Té ra ông nầy là cha vợ của ta
mà ta không biết. Nếu vợ ta không nói thì nghiệp của ta tạo ra nặng nề biết mấy?”.
Các con của Kê Hữu cũng nghĩ rằng: “Nghe nói ông nầy là ông ngoại của ta! Ôi!
Nếu ta giết hại ông thì nghiệp của ta nặng lắm vậy!”.
Khi Kê Hữu nhìn nhận: “Ông nầy là nhạc phụ của ta” thì tâm Từ phát khởi. Các
con của anh ta cũng phát khởi Từ tâm khi nghĩ rằng: “Đây là ông ngoại của ta”.
Khi ấy, mẹ của chúng là tiểu thư con ông Bá hộ bảo:
- Hãy vứt bỏ hết cung tên xin sám hối với cha ta!
Đức Bổn Sư biết tâm của cha con thợ săn đã mềm dịu, liền cho phép họ hạ cung
xuống. Tất cả đều đến đảnh lễ Đức Thế Tôn và bạch:
- Xin Ngài tha thứ tội lỗi cho chúng con!
Rồi họ ngồi xuống một bên, khi ấy Đức Bổn Sư liền thuyết lên Tuần tự pháp
(Anupubbīkathaṃ) cho họ nghe. Cuối thời Pháp, thợ săn Kê Hữu cùng các con và
dâu, tất cả mười lăm người đều đắc quả Tu Đà Hườn.
Kế đó, Đức Bổn Sư đi khất thực và sau bữa ngọ trai, Ngài trở về chùa. Khi ấy,
Trưởng lão Ānanda hỏi:
- Bạch Ngài, hôm nay Ngài đi đâu?
- Nầy Ānanda! Ta đến viếng thợ săn Kê Hữu.
- Bạch Ngài, Ngài có tế độ cho anh ta bỏ nghiệp sát sanh chăng?
- Có, Ānanda ạ! Cả cha, con và dâu, mười lăm người sau khi có đức tin bất động,
không còn hoài nghi Tam Bảo rồi, đều ngưng hẳn nghiệp sát sanh.
Các Tỳ khưu hỏi:
- Bạch Ngài, thế còn vợ anh ta có đắc quả Thánh không?
- Nầy các Tỳ khưu! Vợ anh ấy khi còn là con gái ở nhà với cha mẹ đã đắc Tu Đà
Hườn rồi!
Các Tỳ khưu ráp nhau lại đề khởi câu chuyện nầy: “Nghe nói vợ của Kê Hữu khi
còn là con gái đã chứng đắc Tu Đà Hườn rồi mới về làm vợ của Kê Hữu có được bảy
người con trai. Bấy lâu nay, mỗi lần chồng bảo: “Đem cung, đem tên, đem dao găm,
đem lao, đem lưới lại đây!”, thì chị ta đem những thứ khí giới ấy trao cho chồng, để
chồng mang đi mà giết thịt. Thử hỏi một vị Thánh nhân Tu Đà Hườn cũng còn sát
sanh hay sao?”.
Đức Bổn Sư đến hỏi: “Nầy các Tỳ khưu, hôm nay các thầy ngồi đây thảo luận
chuyện gì?”.
- Bạch Ngài, chuyện nầy...
Nghe vậy Đức Bổn Sư giải thích:
- Nầy các Tỳ khưu, vị Nữ Thánh Dự Lưu không tạo tội sát sanh. Nàng chỉ nghĩ:
“Ta phải vâng lời chồng mà làm việc”, chớ không có tâm xúi giục chồng: “Hãy cầm
lấy cái nầy, đi đến đó và giết hại chúng sanh đi!”. Quả thật, nếu trong lòng bàn tay
không có thương tích, ta lấy tay cầm nắm thuốc độc, thuốc độc không thể đốt lòng bàn
tay như thế nào, thì cũng thế ấy, người không làm tội ác do không có tác ý bất thiện,
dầu có cầm cung tên, khí giới mà trao ra cũng không bị tội.
Nói rồi, Đức Bổn Sư thuyết pháp và ngâm kệ rằng:
“Pāṇimhi ce vaṇo nāssa, Hareyya pāṇinā visaṃ; Nābbaṇaṃ visamanveti, Natthi pāpaṃ akubbato”. | "Bàn tay không thương tích, Có thể cầm thuốc độc. Không thương tích, tránh độc, Không làm, không có ác." |
Comentários