top of page
Ảnh của tác giảKinh Pháp Cú

Tích Truyện Kinh Pháp Cú 127 - BA NHÓM TỲ KHƯU

Đã cập nhật: 13 thg 7



“Na antalikkhe na samuddamajjhe, Na pabbatānaṃ viraraṃ pavissa; Na vijjate(1) so jagatippadeso, Yatraṭṭhito(1) mucceyya pāpakammā”.

"Không trên trời, giữa biển,

Không lánh vào động núi,

Không chỗ nào trên đời,

Trốn được quả ác nghiệp."

(1 Vijjatī – Yatthaṭṭhito (theo bản Pāḷi của CSCD./ Dhammagiri. India)).


- Cần gì phải làm hủy hoại những nữ trang của cô ấy cho uổng?


Ông ta cởi hết nữ trang của cô vợ, cho cô ta mặc một cái váy cũ, rồi bảo mọi

người:

- Hãy ném cô ta đi! Vì ta không thể chịu được khi thấy xác cô ta nổi phình trên

mặt nước, cho nên mấy người hãy lấy bình đầy cát cột vào cổ cô ta rồi liệng cô ta

xuống biển cho ta khỏi trông thấy cô ta nữa.

Mọi người làm theo lời thuyền trưởng.

Ngay chỗ bị ném xuống, phụ nữ ấy bị cá và rùa bao vây cắn rỉa.

Chư Tỳ khưu nghe hết câu chuyện nầy, tự nghĩ: “Ngoài Đức Bổn Sư ra, nào ai

khác biết được tiền nghiệp của phụ nữ ấy? Chúng ta sẽ hỏi Đức Bổn Sư về tiền nghiệp

của nàng!”.


Khi thuyền đến bến, các Tỳ khưu lên bờ và đi bộ về chùa.

Một nhóm Tỳ khưu khác gồm có bảy vị, nhập hạ ở miền biên địa, mãn hạ, trở về

yết kiến Đức Bổn Sư. Dọc đường, chiều tối các vị vào một ngôi chùa xin tạm trú.

Trong chùa có một cái động đá có bảy cái giường, chư Tăng được vào nằm nghỉ

trong đó. Đến nửa đêm, một tảng đá to bằng nóc nhà, từ trên núi lăn xuống, chắn bít

cửa động đá.


Chư Tăng ở chùa bảo nhau: “Chúng ta đã để cho các Tỳ khưu khách ngụ trong

động đá nầy, bây giờ tảng đá to nầy đứng chắn lấp cửa động. Chúng ta hãy dẹp nó

đi!”. Tất cả dân chúng trong bảy làng họp lại, ráng hết sức đẩy cũng không nhúc nhích

nổi tảng đá. Bên trong động, các Tỳ khưu cũng tận lực một cách vô ích.


Suốt bảy ngày liền, dân chúng không dời được tảng đá. Các Tỳ khưu khách phải

nhịn đói trong bảy ngày, thọ khổ rất khốc liệt.

Đến ngày thứ bảy, tảng đá tự động lăn đi.

Các Tỳ khưu được thoát nạn, tự nghĩ: “Quả ác nầy của chúng ta, trừ Đức Bổn Sư

ra thì có ai biết được? Chúng ta sẽ hỏi Ngài!”.


Ra khỏi chùa nầy, các Tỳ khưu nầy gặp hai nhóm Tỳ khưu trước, liền vần đoàn

cùng nhau đi về đảnh lễ Đức Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Sau khi đáp lời vấn an

của Đức Bổn Sư, chư Tăng lần lượt hỏi Ngài về lý do của những điều mình đã mục

kích. Đức Bổn Sư tuần tự giải thích những lý do ấy như sau:


- Nầy các Tỳ khưu, con quạ ấy, tự nó đã tạo nghiệp ác nên mới chịu quả báo như

vậy. Quả nhiên, trong thời quá khứ, nơi thành Bārāṇasī (Ba La Nại), có một nông phu,

tự mình tập con bò của mình mà tập không được. Con bò của anh ta cứ đi một chút lại

nằm xuống. Anh ta đánh nó đứng dậy thì nó cũng chỉ đi một chút rồi lại nằm ỳ xuống

như trước. Ráng hết sức mình mà tập con bò lỳ không được, anh ta nổi nóng nói rằng:

“Từ đây về sau mầy sẽ nằm ngủ an vui nhé!”. Anh ta lấy rơm quấn cổ con bò coi như

cục rơm, rồi lấy lửa châm đốt”.

Con bò bị thiêu sống, phải chết ngay nơi ấy.



- Nầy các Tỳ khưu, đó là tiền nghiệp của con quạ tạo. Do quả dị thục, nó đã bị

thiêu trong hỏa ngục rất lâu và do quả còn dư sót nó đã đầu thai làm quạ bảy lần và bị

chết cháy trên không như thế.


- Nầy các Tỳ khưu, sau đây là tiền nghiệp của phụ nữ ấy. Trong thời quá khứ,

nơi thành Bārāṇasī (Ba La Nại), vợ của một gia chủ nọ, một tay quán xuyến tất cả

công việc nhà, nào là gánh nước, giã gạo, nấu cơm v.v... Có một con chó đực, cứ ngồi

nhìn chị ta trong khi chị ta đang làm các công việc nhà. Khi chị ta đem cơm ra ruộng

cho chồng, hoặc vào rừng kiếm củi, lá v.v... con chó cũng đi theo chị ta.


Thấy vậy, các thanh thiếu niên chế nhạo rằng: “Anh em ơi, bữa nay thợ săn dắt

con chó đi săn, chúng mình sẽ có thịt ăn!”.


Nghe lũ trẻ nói vậy, chị ta mắc cỡ, lấy gậy, lấy đá đánh đuổi con chó chạy đi xa.


Theo truyền thuyết, con chó nầy đã là chồng của chị ta trong ba tiền kiếp, cho nên

không thể đoạn tuyệt luyến ái được. Quả thật, mặc dầu trong cái vòng luân hồi vô thỉ,

ban dầu không có ai là vợ hoặc là chồng của ai cả, nhưng trong những kiếp gần đây,

vì tình thân thuộc mà phát sanh sự ái luyến thái quá, cho đến nỗi con chó lìa xa chị ta

không được.


Phụ nữ nổi giận, muốn giết con chó, bèn lấy một cuộn dây đem theo mình, khi

đem cháo ra ruộng cho chồng ăn, con chó vẫn lẽo đẽo theo sau phụ nữ ấy.


Sau khi đưa cháo cho chồng ăn rồi, chị ta cầm cái bình không đi đến một ao

nước, hốt cát đổ đầy bình. Nhìn thấy con chó đứng gần đó, chị ta tróc kêu nó đến.


Con chó nghĩ thầm: “Từ lâu lắm, hôm nay ta mới được nghe những lời dịu

ngọt”, nó ngoắt đuôi chạy lại.


Phụ nữ ấy nắm chặt cổ con chó. Một đầu dây đã cột sẵn vào bình đầy cát, còn

một đầu chị ta cột cổ con chó, rồi ném cái bình xuống ao nước. Con chó bị lôi theo cái

bình và bị chết chìm dưới ao.


Do quả dị thục của ác nghiệp nầy, phụ nữ đã bị thiêu đốt rất lâu dưới địa ngục.

Do quả dư sót, chị ta bị cột cổ dính với cái bình đầy cát, thảy xuống nước và chết đuối

như vậy trong một trăm kiếp nữa, khi được trở lại làm người.


- Nầy các Tỳ khưu, các thầy đã gặp nạn cũng là do quả tiền nghiệp. Thật vậy,

trong thời quá khứ, có bảy cậu bé chăn bò cư ngụ nơi thành Bārāṇasī, thường đuổi bò

cho ăn trong một chỗ đất hoang ở ven rừng, cứ bảy ngày thì trở lại chỗ ban đầu.


Một hôm, khi đuổi bò về, chúng gặp một con kỳ đà và rượt theo nó. Con kỳ đà

chạy thoát, chun xuống một gò mối. Cái gò nầy có bảy ngách. Lũ trẻ nói: “Bây giờ

chúng ta không thể bắt được nó. Ngày mai ta hãy trở lại bắt nó!”. Nói rồi, bảy đứa bé,

mỗi đứa bẻ một nhánh cây làm gậy, thọc xuống bít bảy lỗ ngách rồi bỏ đi.


Hôm sau, không nhớ đến con kỳ đà, lũ trẻ đuổi bò cho đi ăn ở một nơi khác. Đến

ngày thứ bảy, chúng đuổi bò đáo trở lại chỗ cũ, nhìn thấy gò mối mới nhớ đến con kỳ

đà: “Con kỳ đà bây giờ ra sao nhỉ?”. Mỗi đứa bé tự khai mở lỗ ngách của mình đã bít.



Con kỳ đà đã ngất ngư gần chết, thân hình ốm chỉ còn xương với da, run rẩy bò

lê ra ngoài. Thấy nó như vậy, lũ trẻ thương xót khuyên nhau: “Thôi đừng phá nó nữa,

nó đã nhịn đói bảy ngày rồi”, chúng xoa lưng nó và nói: “Hãy đi an vui nhé!”, rồi thả

nó ra. Nhờ con kỳ đà chưa chết, bọn trẻ không bị thiêu ở địa ngục. Tuy nhiên, bảy đứa

trẻ đã tạo cộng nghiệp, nên mười bốn kiếp về sau, mỗi kiếp chúng đều bị bỏ đói bảy

ngày như thế cả.

- Nầy các Tỳ khưu, thuở xa xưa, khi sanh làm bảy đứa trẻ chăn bò, các thầy đã

tạo ác nghiệp như thế.


Khi ấy, một vị Tỳ khưu hỏi Đức Thế Tôn rằng:

- Bạch Ngài, nếu vậy thì khi con người đã tạo nghiệp ác rồi, dầu cho bay lên trời,

lặn xuống biển, hoặc vào trong hang núi, cũng không thoát khỏi quả của nghiệp phải

chăng?


Đức Bổn Sư xác nhận:

- Nầy các Tỳ khưu, đúng như vậy! Bất cứ nơi đâu, như trên trời chẳng hạn, cũng

không có chỗ trú để tránh khỏi quả của nghiệp ác.


Nói rồi, Đức Thế Tôn ngâm kệ rằng:


“Na antalikkhe na samuddamajjhe, Na pabbatānaṃ viraraṃ pavissa; Na vijjate(1) so jagatippadeso, Yatraṭṭhito(1) mucceyya pāpakammā”.

"Không trên trời, giữa biển,

Không lánh vào động núi,

Không chỗ nào trên đời,

Trốn được quả ác nghiệp."



Bài đăng gần đây

Xem tất cả

Comments


bottom of page