top of page
Ảnh của tác giảKinh Pháp Cú

Tích Truyện Kinh Pháp Cú 136 - NGẠ QUỶ MÌNH TRĂN

Đã cập nhật: 13 thg 7



"Atha pāpāni kammāni, Karaṃ bālo na bujjhati; Sehi kammehi dummedho, Aggidaḍḍhova tappati.”

"Người ngu làm điều ác,

Không ý thức việc làm.

Do tự nghiệp, người ngu

Bị nung nấu, như lửa."


Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết ra khi Ngài an ngự tại Trúc Lâm, đề cập đến ngạ quỷ mình Trăn (Ajagara).


Một thuở nọ, trong khi đang đi với Trưởng lão Lakkhaṇa (Lắc Khá Ná) từ núi

Kỳ Xà Quật (Gijjhakūṭa) xuống, Trưởng lão Moggallāna (Mục Kiền Liên) đã thấy

bằng Thiên nhãn, một con Ngạ quỷ mình trăn dài đến hai mươi lăm do tuần. Từ đầu

nó ngọn lửa bốc lên đến đuôi, từ đuôi nó ngọn lửa bốc lên đi đến đầu, từ đầu và đuôi

nó hai phía ngọn lửa bốc lên đi vào khoảng giữa mình nó. Trưởng lão thấy vậy mỉm

miệng cười, Trưởng lão Lakkhaṇa hỏi về lý do cái cười đó, Trưởng lão đáp: “Nầy

đạo hữu, không phải thời giải đáp câu hỏi nầy, chừng nào đến trước Đức Thế Tôn,

đạo hữu hãy hỏi lại tôi”.


Nói rồi, hai Trưởng lão bước vào thành Sāvatthī (Vương Xá) khất thực. Khi về

đến trước Đức Bổn Sư rồi, Trưởng lão Lakkhaṇa liền hỏi lại và Trưởng lão

Moggallāna đáp rằng:


- Nầy đạo hữu, lúc ấy tôi đã thấy một Ngạ quỷ, vì thân hình nó kỳ dị tôi chưa

từng thấy như thế bao giờ, cho nên tôi mỉm cười.


Đức Bổn Sư xác nhận lời nói của Trưởng lão rằng:


- Nầy các Tỳ khưu! Quả thật các Thinh Văn của Ta đều có Chánh kiến như thế

cả.


Rồi Ngài nói tiếp rằng: “Nầy các Tỳ khưu, Ngạ quỷ ấy chính Ta đã từng nhìn

thấy sau khi chứng Đạo Quả dưới cội Bồ Đề, nhưng Ta không nói ra vì e rằng những

người không tin lời Ta, ắt không được lợi ích. Bây giờ có Moggallāna làm chứng, nên

ta mới nói”. Chư Tăng hỏi về tiền nghiệp của con Ngạ quỷ ấy, Đức Bổn Sư bèn giải

rằng:


Tương truyền: Trong thời Đức Phật Ca Diếp (Kassapa), có Bá hộ tên là

Sumaṅgala (Xú Măng Gá Lá) đã lót gạch bằng vàng một khoảng đất rộng hai mươi

usabha(1), đã xuất ra một số tiền của nhiều như thế nữa để kiến tạo một ngôi chùa và

xuất thêm một số tiền tương đương như thế để khánh thành ngôi chùa ấy. (1 Một Usabha khoảng một trăm bốn mươi cubit, một cubit lối hai mươi ngón tay.)



Một hôm, Bá hộ đi viếng Đức Bổn Sư từ sáng sớm, đi đến cổng thành thấy một

kẻ trộm nằm trong cái trại (sālā) đầu trùm bằng một chiếc y vàng, hai chân dính đầy

bùn, Bá hộ nói rằng:


- Người có chân dính đầy bùn nầy, chắc đã đi rong ban đêm, mới về nằm đây.

Tên trộm giở y chường mặt ra, thấy Bá hộ liền buộc oan trái với ông rằng:

- Rồi đây, ta sẽ tìm cách đối phó với ông.


Anh ta đã lén đốt ruộng và đốt nhà của ông Bá hộ bảy lần nữa. Làm bấy nhiêu

chuyện ác để trả thù cũng chưa nguôi giận, tên trộm còn tìm đến làm quen kết bạn với

người hầu riêng của Bá hộ, rồi lựa dịp hỏi: “Ông Bá hộ ưa thích cái gì?”.


Khi nghe đáp: “Ngoài hương thất ra, ông Bá hộ không còn ưa thích cái gì hơn

nữa cả”. Nghe vậy, tên trộm quyết tâm: “Ta sẽ đốt rụi hương thất mới hả lòng căm

giận của ta”.


Chờ khi Đức Phật vào thành khất thực, tên trộm lẻn vào đập bể tan những vò

nước uống, nước xài rồi châm lửa đốt hương thất.


Hay tin cấp báo hương thất bị đốt, Bá hộ đến ngay trong lúc lửa còn cháy, nhìn

hương thất đang cháy đã không mảy may chút buồn phiền ông còn vỗ tay cười lớn.

Khi ấy, dân chúng đứng gần ông ta thấy lạ, liền hỏi:


- Thưa chủ, tại sao ông đã bỏ ra nhiều tiền để tạo hương thất, mà ông lại vỗ tay

cười khi nó đang cháy như vậy?

- Nầy bà con! Bao nhiêu công trình của ta làm đó là của chôn trong chỗ đặc biệt

là Phật giáo, không có sự tai hại nào, nhất là lửa có thể lấy mất được. Vả lại, ta sẽ có

dịp xuất ra một số tiền của như vậy nữa để tái tạo hương thất dâng cúng Đức Bổn Sư,

nên ta thỏa thích vỗ tay cười.


Sau khi xuất ra một số tiền của nhiều như trước, cho cất xong hương thất, Bá hộ

làm phước Trai Tăng đến Đức Bổn Sư với hai mươi ngàn Tỳ khưu tùy tùng. Thấy Bá

hộ làm như thế, tên trộm nghĩ thầm: “Ta mà không giết chết được ông nầy thì ta

không thể nào rửa được cái nhục nầy. Ta phải giết ông mới được”. Thế rồi, anh ta cột

dao găm giấu trong thắt lưng, đi vơ vẩn trong chùa suốt cả bảy ngày mà không gặp

được cơ hội thuận tiện.


Riêng ông Đại Bá hộ, sau bảy ngày Trai Tăng đến Tăng chúng có Đức Phật dẫn

đầu, mới đảnh lễ Đức Giáo Chủ và nói:


- Nhờ một người đốt ruộng con, chặt chân bò trong chuồng con bảy lần, bây giờ

đây cũng nhờ người ấy đốt hương thất con mới có dịp làm phước. Vậy trong cuộc

phước thí nầy, phần phước thứ nhất con xin chia cho người ấy.


Nghe ông Bá hộ nói như thế, tên trộm tự nghĩ: “Ôi! Nặng thay là nghiệp của ta

đã tạo. Ta đã xúc phạm đến ông như vậy mà ông chẳng có chút gì giận ta, lại còn chia

cho ta phần phước thứ nhất trong cuộc thí nầy. Ta là một kẻ phản bội, nếu ta không

xin xám hối một người như thế, hình phạt của chư thiên sẽ giáng xuống đầu ta.


Tên trộm đến quỳ mọp trước chân ông Bá hộ và nói:



- Thưa ông chủ, xin ông chủ xá tội cho con.

- Việc chi đây?


Nghe vậy, tên trộm đáp:


- Thưa chủ, bao nhiêu việc ông vừa kể ra đó, chính con đã làm. Xin ông hãy tha

tội ấy cho con.


Ông Bá hộ hỏi lại tên trộm về tất cả mọi hành vi của anh ta: “Bao nhiêu việc nầy

việc nọ chính con đã làm ra cho ta phải không?”


- Thưa phải, chính con đã làm.


Nghe vậy, Bá hộ hỏi:


- Con chưa từng gặp ta, tại sao lại căm thù ta mà làm như vậy?


Tên trộm bèn nhắc lại mấy lời ông đã nói, ngày mà ông Bá hộ đi ra cổng thành,

thấy anh ta nằm ngủ, rồi nói tiếp rằng:


- Vì lẽ đó mà con đã giận ghét ông chủ.


Ông Bá hộ nhớ lại mình đã có mấy lời ấy, bèn nhận lỗi: “Ồ, ta có nói như vậy,

thôi con hãy miễn lỗi cho ta”.


Xin lỗi tên trộm xong rồi, ông nói:


- Thôi con hãy đứng dậy, ta tha tội cho con, con hãy đi đi.

- Thưa ông chủ, nếu ông chủ đã tha tội cho con, xin ông chủ nhận cho con đưa cả

vợ con đến làm tôi tớ trong nhà ông chủ.

- À, bấy nhiêu việc con làm đối với ta, là đã dứt khoát rồi. Ta không thể bàn đến

chuyện ở chung trong một nhà. Con không có phận sự chi ở trong nhà ta cả. Ta tha tội

cho con, thôi con hãy đi.


Vì tạo nghiệp ấy, khi hết tuổi thọ, tên trộm bị sa xuống địa ngục A Tỳ, bị thiêu

đốt rất lâu nơi đó. Do quả dư sót, bây giờ tái sanh làm Ngạ quỷ mình trăn ở trên đỉnh

núi Gijjhakūṭa, hằng bị lửa thiêu đốt.



Sau khi giải rõ tiền nghiệp của Ngạ quỉ đó, Đức Bổn Sư dạy rằng:


- Nầy các Tỳ khưu, hạng người ngu khi làm các nghiệp ác thì không tự biết,

nhưng về sau chính những nghiệp của họ đã tạo thiêu đốt họ, chẳng khác nào lửa rừng

tự nhiên bốc cháy lấy mình vậy.


Nói rồi, Đức Bổn Sư thuyết pháp và ngâm kệ rằng:


"Atha pāpāni kammāni, Karaṃ bālo na bujjhati; Sehi kammehi dummedho, Aggidaḍḍhova tappati.”

"Người ngu làm điều ác,

Không ý thức việc làm.

Do tự nghiệp, người ngu

Bị nung nấu, như lửa."


21 lượt xem0 bình luận

Bài đăng gần đây

Xem tất cả

Comments


bottom of page