“Ye jhānapasutā dhīrā, Nekkhammūpasame ratā; Devāpi tesaṃ pihayanti, Sambuddhānaṃ satīmataṃ”. | "Người trí chuyên thiền định, Thích an tịnh viễn ly, Chư thiên đều ái kính, Bậc chánh giác chánh niệm." |
Kệ Pháp Cú nầy được Đức Bổn Sư thuyết lên, khi Ngài trú tại thành Sankassa, đề cập đến nhiều vị Chư Thiên và nhân loại tại cửa thành Sankassa.
Một thời, có vị Trưởng giả trong thành Rājagaha, ông ta cho giăng lưới có hình
như chiếc chai bể, để giữ an toàn khu vực tắm riêng mình và giữ lại những đồ vật do
vô ý làm rớt xuống nước bị trôi đi như là: y phục… chẳng hạn.
Một hôm, khi đi tắm sông, ông bỗng trông thấy một khúc gỗ trầm hương đỏ trôi
tấp vào lưới giăng và mắc vào đó. Nguyên trên thượng lưu sông Gangā, có một cây
Trầm hương mọc dựa mé thượng nguồn, dần dần nước xoáy gốc trầm hương, cây
trầm hương ngã xuống, một đoạn trầm có vòng tròn bằng cái nồi rơi trên một tảng đá,
bị đá cắt dần rồi đứt ra, sóng đánh vào và rút dần ra, khúc trầm ấy rơi vào dòng sông
Gangā, xuôi theo dòng nước trôi xuống miền hạ lưu sông, dính mắc vào lưới của
Trưởng giả ấy. Vị Trưởng giả hỏi tùy tùng rằng: “Cái gì thế?”.
Khi biết là khúc lõi trầm hương. Ông cho mang lên, quán sát biết đây là loại trầm
hương đỏ quý giá. Trưởng giả nầy chẳng phải là người có chánh kiến, cũng không rơi
vào tà kiến của ngoại giáo. Ông ta không theo một đạo giáo nào cả, khi nhặt được
khúc gỗ trầm quý giá đó, ông khởi lên sự suy nghĩ rằng:
- Loại trầm hương đỏ nầy, nơi gia tộc ta có nhiều. Ta cần thiết chi đến loại trầm
hương nầy.
Rồi ông lại khởi lên ý tưởng rằng: “Hiện nay trong thành Rājagaha có nhiều
người tự xưng mình là bậc A La Hán. Riêng ta thì chẳng biết giáo phái nào có được vị
A La Hán. Vậy ta hãy cho tiện khúc gỗ trầm nầy làm thành bát, treo giữa hư không
cao khoảng 60 hắc tay (30m), cho rao truyền rằng: Bậc nào là Thánh A La Hán thì
hãy bay lên nhận lấy bát ấy. Người nào nhận được bát bằng thần thông lực thì ta
cùng với vợ con sẽ theo người ấy”.
Ông cho tiện khúc gỗ trầm hương đỏ thành cái bát, rồi thực hành theo ý tưởng
của mình, xong rồi cho gia nhân đánh trống rao truyền khắp kinh thành Rājagaha
rằng:
“Trong thế gian nầy, bậc nào là A La Hán, vị ấy hãy đến nhận lấy bát này đi”.
Nghe được tin ấy, cả Giáo chủ của sáu ngoại đạo, cho người đến thảo luận riêng
với Trưởng giả ấy rằng:
- Nầy Trưởng giả, cái bát ấy rất xứng đáng với Giáo chủ của chúng tôi, ông hãy
dâng bát ấy đến Giáo chủ chúng tôi đi.
- Thưa các Ngài! Giáo chủ của Ngài hãy dùng thần thông bay lên lấy bát ấy đi.
Ông đã từ khước dâng bát bằng cách như vậy. Đến ngày thứ sáu, Giáo chủ ngoại
đạo Nigantha là Niganthanātapliputta bày mưu cùng các đệ tử rằng:
- Các con hãy đến tán dương oai đức của ta với Trưởng giả ấy, rằng: “Bát trầm
nầy xứng đáng với Giáo chủ của chúng tôi, ông chớ vì cái bát có giá trị nhỏ mọn nầy
mà để Giáo chủ chúng tôi phải hiển lộ thần thông như thế”.
Nhóm đệ tử Nigantha làm theo lời thầy dạy, nhưng vị Trưởng giả đã trả lời rằng:
- Người nào có khả năng thần thông, hãy bay lên hư không mà nhận bát ấy.
Rồi Nātapliputta bàn với đệ tử rằng:
- Khi ta đưa tay chân lên, giả vờ như muốn bay đi lấy bát, các con hãy ôm ta lại,
thưa rằng: “Thưa thầy! Thầy làm chi như thế, xin thầy đừng phô diễn khả năng
thượng pháp của bậc A La Hán, chỉ vì cái bát có giá trị nhỏ nhoi như vầy”. Rồi nắm
lấy tay, chân của ta xuống.
Xong rồi, Giáo chủ Niganthanātapliputta đi đến Trưởng giả nói:
- Nầy Đại Trưởng giả! Bát trầm nầy chỉ xứng đáng với ta, chẳng xứng đáng với
ai khác đâu. Ông chớ nên vui thích sự bay lên không trung của ta chỉ vì nguyên nhân
cái bát có giá trị nhỏ nhoi nầy. Ông hãy dâng bát ấy đến ta đi.
- Thưa Ngài, nếu Ngài cần thì Ngài hãy bay lên lấy bát ấy đi.
- Nếu thế thì, ông hãy xem đây.
Niganthanātapliputta giả vờ đưa cao chân tay, như muốn thi triển thần thông bay
đi lấy bát, chúng đệ tử Niganthanātapliputta lập tức chạy đến, nắm lấy tay chân của y,
nói rằng:
- Thưa thầy, thầy làm chi thế? Có ích lợi chi cho thầy khi phải phô diễn thần
thông lực với Đại chúng chỉ vì cái bát nhỏ nhoi nầy chứ.
Rồi họ kéo tay chân của Niganthanātapliputta xuống. Khi ấy, y nói với Trưởng
giả rằng:
- Nầy Đại Trưởng giả! Các đệ tử của ta không cho ta phô diễn thần thông. Vậy
ông hãy cho ta cái bát trầm ấy đi.
- Thưa Ngài, nếu muốn bát ấy, thì Ngài hãy cứ bay lên lấy vậy.
Bọn ngoại đạo dù cho cố dùng đủ mọi phương cách, thủ thuật như thế cũng
không lấy được bát. Vào sáng ngày thứ bảy, Tôn giả Moggallāna cùng Tôn giả
Pindolabhāradvāja, hai vị trú ở tảng đá đen (kālanilā) nơi ngoại thành Rājagaha cùng
đi vào thành Rājagaha khất thực. Hai Ngài nghe đại chúng bàn luận cùng nhau rằng:
- Trưởng giả cho treo bát cao khoảng 60 hắc tay, loan báo rằng: Vị nào là Thánh
A La Hán hãy đến nhận lấy bát ấy. Nhưng đã bảy ngày rồi chẳng có ai lấy được bát ấy
cả. Chẳng lẽ trong thế gian nầy không có bậc A La Hán sao nhỉ?
- Lại nữa, thời trước cả 6 vị Giáo chủ danh tiếng, tự xưng là bậc A La Hán trong
thế gian, thế mà cũng không thể dùng thần thông bay lên để lấy bát trầm ấy. Cả thời
gian bảy ngày trôi qua như thế, không có ai phô diễn năng lực của Bậc A La Hán cho
chúng ta được mục kích. Như thế, hôm nay chúng ta biết rằng: Trong thế gian nầy
không có bậc A La Hán đâu.
Nghe vậy, Tôn giả Moggallāna hỏi Tôn giả Pindolabhāradvāja:
- Nầy Hiền giả! Hiền giả có nghe sự bàn luận của chúng dân trong thành
Rājagaha chăng?
- Thưa Hiền giả! Tôi có nghe.
- Nầy Hiền giả! Họ đã khích bác Phật Giáo. Hiền giả là người có thần thông lực,
hãy bay lên nhận bát ấy và làm loạn nghi đại chúng đi, mang lại niềm tin cho những ai
chưa tín ngưỡng, làm tăng trưởng niềm tin cho người đã có đức tin.
- Thưa Hiền giả! Hiền giả là bậc được Đức Thế Tôn ban cho danh hiệu là Tối
thắng đệ nhất về thần thông. Xin Hiền giả hãy đi lấy bát ấy đi. Nếu Hiền giả không đi
lấy thì tôi sẽ đi lấy vậy, vì đó là phận sự của tôi.
- Nầy Hiền giả Pindolabhāradvāja! Hiền giả hãy lấy bát ấy đi.
Được tôn giả Moggallāna cho phép, Tôn giả Pindolabhāradvāja nhập vào Tứ
Thiền, ước nguyện thi triển thần thông, khi xả thiền Ngài dùng hai ngón chân kẹp lấy
một tảng đá lớn khoảng 3 gāvuta, bay lên hư không như người ta kẹp lấy mảnh bông
gòn, Tôn giả bay quanh kinh thành bảy vòng. Tảng đá như cái lọng lớn che kín một
vùng kinh thành khoảng 7 gāvuta. Thị dân kinh hoàng rằng: “Tảng đá sẽ rớt đè chúng
tôi”. Họ tìm lấy thúng, nia… để che trên đầu, thấy chúng dân kinh hoàng, Tôn giả
Pindolabhāradvāja hiện rõ thân, Ngài vẫn kẹp chặt tảng đá trong hai ngón chân. Đại
chúng thấy được Tôn giả, liền kêu lên rằng:
- Thưa Tôn giả Pindolabhāradvāja! Ngài giữ chặt lấy tảng đá ấy, đừng để rơi
xuống đè chết chúng tôi.
Tôn Giả Pindolabhāradvāja thấy chúng dân kinh hoàng như thế, Ngài vận thần
thông đưa tảng đá trở về nơi cũ, rồi bay đến lấy bát trầm đang treo cao 60 hắc tay ấy.
Vị Trưởng giả mục kích được cảnh tượng hy hữu, đúng theo nguyện vọng của mình,
ông đi đến đảnh lễ Tôn Giả Pindolabhāradvāja, rước bát trầm ấy và bạch:
- Xin thỉnh Ngài hãy ngự vào nhà của con.
Khi Tôn Giả ngự vào nhà của Trưởng giả, ngồi lên chỗ ngồi đã được soạn sẵn,
Trưởng giả cho đặt vào bát trầm ấy bốn loại vật thực có đầy đủ hương vị tối thắng,
cúng dường đến Tôn Giả. Tôn giả thọ lãnh xong rồi, trở ra hướng về Tịnh Xá
Jetavana.
Khi ấy, có những người dân phải ra ngoại thành làm việc trong rừng, hay đồng
ruộng, trở về nghe thị dân tán dương và thuật lại cảnh tượng hy hữu ấy. Những người
không có duyên mục kích hiện cảnh thần thông lực của Tôn Giả, đã hội lại với nhau,
đến bạch xin Trưởng Lão hãy thi triển thần thông như ban sáng, rằng:
- Xin Ngài hãy thể hiện thần thông cho chúng tôi xem đi.
Tôn Giả Pindolabhāradvāja đành phải thi triển lại thông lực như ban sáng để làm
lắng yên sự náo động của nhóm người ấy. Đức Thế Tôn nghe được tiến ồn ào náo
nhiệt của nhóm người hiếu kỳ ấy, Ngài phán hỏi Đại Đức Ānanda rằng:
- Nầy Ānanda! Tiếng ồn ào náo nhiệt ấy là do nhân chi thế?
Đại Đức Ānanda thuật lại mọi sự việc, khi biết được rằng: “Bạch Thế Tôn! Đó là
tiếng thỉnh cầu của Đại chúng, thỉnh Tôn Giả Pindolabhāradvāja thi triển lại thần
thông như ban sáng”.
Đức Thế Tôn cho gọi Tôn giả Pindolabhāradvāja đến, hỏi rằng:
- Nầy Bhāradvāja! Có thật chăng, được nghe rằng ngươi đã làm như thế, như
thế?
- Bạch Thế Tôn! Có thật như vậy.
- Nầy Bhāradvāja! Tại sao ngươi lại làm như thế, tại sao ngươi lại phô diễn năng
lực Thượng nhân pháp chỉ vì cái bát trầm có giá trị nhỏ nhoi nầy.
Sau khi khiển trách Tôn Giả Pindola xong, Ngài thuyết pháp thoại, rồi dạy đập
bỏ bát trầm ấy, tán nhuyễn ra dùng làm thuốc nhỏ mắt. Do nhân đó, duyên đó Bậc
Đạo Sư chế định học giới cấm Tỳ khưu không được phô diễn thần thông lực.
Bọn ngoại giáo được tin rằng: “Sa môn Gotama cho đập bỏ bát trầm, tán nhuyễn
dùng làm thuốc nhỏ mắt, rồi chế định học giới, không cho Tỳ khưu phô diễn thần
thông”. Chúng liền đi rao truyền trong kinh thành rằng:
- Chúng ta gìn giữ Pháp của mình, nên mới không phô diễn năng lực bậc A La
Hán chỉ vì bát trầm có giá trị nhỏ nhoi như thế. Sa môn Gotama đã cấm chế đệ tử
mình dùng thần thông, vậy thì giờ đây chúng ta sẽ thi triển thần thông đấu với Sa môn
Gotama vậy.
Bọn ngoại đạo biết được rằng: “Các đệ tử của Đức Thế Tôn, khi Ngài chế định
học giới rồi, dù có chết các Ngài cũng chẳng hề vi phạm, luôn bảo vệ học giới”. Nên
chúng bảo nhau: “Chúng ta đã có cơ hội làm giảm uy danh của Sa môn Gotama rồi”,
do vậy chúng mới trân tráo lên tiếng thách thức, thi đấu thần thông như vậy. Nghe bọn
ngoại đạo tuyên bố như thế, Đức Vua Bimbisāra lo lắng, Ngài đi đến Tịnh Xá
Veḷuvana bạch hỏi với Đức Thế Tôn rằng:
- Bạch Thế Tôn! Được biết rằng Ngài chế định học giới cho chư Tỳ khưu:
Không được thi triển, phô diễn năng lực thần thông phải chăng?
- Thật như thế, nầy Đại Vương.
- Hiện nay bọn ngoại giáo đã tuyên bố rằng: chúng sẽ thi triển thần thông để đấu
với Ngài. Giờ đây Đức Thế Tôn phải làm sao?
- Nếu bọn ngoại đạo muốn dùng thần thông đấu với Như Lai, Như Lai sẽ thể
hiện thần thông.
- Bạch Thế Tôn! Có phải Ngài đã chế định học giới ấy rồi?
- Nầy Đại Vương! Thật vậy Như Lai chế định học giới cho đệ tử Như Lai, chứ
chẳng phải chế định học giới ấy cho mình.
- Bạch Thế Tôn! Điều học Ngài chế định chỉ cho riêng đệ tử Ngài, chứ riêng
Ngài thì không bỏ cuộc trong học giới ấy sao?
- Nầy Đại Vương! Như Lai sẽ hỏi Đại Vương về vấn đề nầy. Nầy Đại Vương!
Vườn Thượng Uyển của Hoàng gia trong thành nầy có chăng?
- Bạch Thế Tôn có!
- Đại Vương có ra lịnh: Người ngoài vào vườn hái hoa quả, người ấy sẽ bị hình
phạt chăng?
- Bạch Thế Tôn có!
- Nếu người khác vi phạm đi vào vườn Thượng Uyển hái trái, hái hoa thì Đại
vương sẽ làm sao?
- Bạch Ngài! Trẫm sẽ trừng phạt kẻ ấy, vì đã sai lịnh của Trẫm.
- Nầy Đại Vương! Nếu như Đại Vương vào vườn Thượng Uyển hái lấy những
quả chín như xoài… để dùng, thì Ngài có phạm tội chăng?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Vì sao vậy, nầy Đại Vương khi Ngài ra lịnh: Không ai được vào vườn Thượng
Uyển hái hoa, trái, người khác vào thì phạm tội, còn riêng Ngài thì không?
- Bạch Thế Tôn! Trẫm ra lệnh ngăn cấm như thế, là ngăn cấm người khác, chứ
riêng Trẫm thì không bị ràng buộc bởi sự ngăn cấm ấy.
- Cũng vậy, nầy Đại Vương! Đấng Như Lai chế định điều học là dành cho đệ tử
mình, riêng Như Lai là bậc Pháp Vương không hề bị ràng buộc do sự ngăn cấm ấy.
Nầy Đại Vương, điều học mà Như Lai chế định cho đệ tử có oai lực đến trăm ngàn
koti thế giới, cũng như hình phạt của Đại Vương có năng lực trong 300 do tuần quốc
độ của mình. Hình Phạt ấy không có hiệu lực đối với Đại Vương như thế nào, thì học
giới mà Như Lai chế định cho đệ tử, Như Lai chẳng bị ràng buộc vào trong đó như thế
ấy. Do vậy, Như Lai sẽ tự thân thi triển thần thông vậy.
Nghe Đức Thế Tôn tự thân thi triển thần thông, bọn ngoại đạo lo lắng, bàn luận
cùng nhau rằng:
Giờ đây, chúng ta bị tổn hại rồi, nghe rằng: Sa Môn Gotama tự thân thi triển thần
thông, ông chỉ chế định học giới cho hàng đệ tử mà thôi, chứ riêng Sa Môn Gotama
chẳng bị ràng buộc trong điều học nầy. Giờ đây chúng ta phải làm sao đây?
Thế rồi, Đức Vua Bimbisāra đi đến tịnh xá Veḷuvana, bạch hỏi Đức Thế Tôn
rằng:
“Bạch Thế Tôn! Khi nào Ngài thể hiện thần thông?”.
- Nầy Đại Vương! Còn bốn tháng nữa, vào ngày rằm tháng sáu, Như Lai sẽ thi
triển thần thông.
- Bạch Thế Tôn! Ngài sẽ thực hiện thần thông ở nơi đâu?
- Như Lai sẽ thi triển thần thông tại thành Sāvatthī.
Hỏi rằng: Vì sao Bậc Đạo Sư định thời gian xa như vậy?
Đáp rằng: Vì kinh thành Sāvatthī là nơi chư Phật quá khứ đã dùng thần thông
nhiếp phục ngoại đạo. Lại nữa, Ngài dự định thời gian dài như vậy, để đại chúng có
dịp tụ hội với nhau. Và trong đời chư Phật chỉ có một lần Ngài thể hiện Song Thông
Lực mà thôi.
Bọn ngoại đạo nghe được tin nầy, chúng bàn tính với nhau rằng:
- Được nghe nói rằng: Sa môn Gotama còn bốn tháng nữa sẽ thi thố thần thông
tại thành Sāvatthī. Bây giờ, chúng ta hãy bám sát theo Sa môn Gotama. Đại chúng
thấy thế có hỏi, thì chúng ta đáp rằng: “Chúng tôi có tuyên bố thi triển thần thông với
Sa môn Gotama, nay Sa môn Gotama toan trốn chạy, nên chúng tôi phải truy đuổi
theo ông ta”.
Bấy giờ, Bậc Đạo Sư sau khi ngự vào kinh thành Rājagaha khất thực xong, khi
Ngài trở ra thì bọn ngoại đạo cử người theo sau bám sát Ngài. Khi bọn chúng bị đại
chúng hỏi rằng: “Vì sao các ông theo sát Đức Thế Tôn như thế?”. Chúng trả lời rằng:
“Vì chúng tôi tuyên bố sẽ dùng thần thông đấu với Sa môn Gotama, nay ông ấy toan
trốn, nên chúng tôi phải theo sát như thế”.
Đại chúng suy nghĩ rằng: “Chúng ta sẽ được mục kích hết thần thông của Đấng
Thập Lực”.
Đức Thế Tôn từ giã thành Rājagaha tuần tự du hành đến thành Sāvatthī. Bấy giờ,
bọn ngoại giáo theo phía sau Ngài, khi đi đường chúng quyên góp tài vật của các giáo
dân mà rằng: Hãy bỏ ra 100 dồng vàng, hãy bỏ ra 1000 đồng vàng. Chúng tích trữ
được số tài sản lớn, bỏ ra trăm ngàn đồng vàng kiến tạo mái nhà nóc nhọn bằng gỗ
sālā, lợp nóc nhà bằng hoa sen xanh. Rồi tuyên bố với chúng dân thành Sāvatthī rằng:
“Chúng tôi sẽ dùng nơi nầy thi triển thần thông với Sa môn Gotama”.
Được tin Đức Thế Tôn ngự về quốc độ Kosala của mình, Đức Vua Pasenadi đi
vào Jetavana, đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi bạch hỏi rằng:
- Bạch Thế Tôn! Hiện nay bọn ngoại đạo đã kiến tạo ngôi nhà nóc nhọn, lợp
bằng hoa sen xanh, chính nơi ấy chúng tuyên bố sẽ dùng thần thông đấu với Ngài.
Bạch Thế Tôn! Trẫm sẽ kiến tạo mái nhà dâng đến Ngài.
- Nầy Đại Vương! Chớ phí sức như thế, Như Lai sẽ có người làm nhà rồi.
- Bạch Thế Tôn! Ngoài Trẫm ra, ai có năng lực làm được việc ấy?
- Nầy Đại Vương! Thiên Vương Đế Thích sẽ đảm nhận việc đó cho Như Lai.
- Bạch Thế Tôn! Nếu thế, Ngài sẽ thể hiện thần thông tại nơi nào?
- Nầy Đại Vương! Tại cây xoài Ganda.
Chúng ngoại giáo được biết: Sa môn Gotama sẽ thi triển thần thông tại cây xoài
Ganda. Chúng liền cho những người hộ độ của mình, thuê tiền nhổ tất cả những cây
xoài, dù chỉ là cây con mới vừa mọc trong ngày, khắp thành Sāvatthī ném bỏ. Cả một
do tuần thành phố quanh đó không có cây xoài nào cả, chúng đem những cây xoài nhổ
bỏ đó ném vào rừng.
Vào ngày rằm tháng sáu, sáng hôm ấy Đức Thế Tôn ngự vào thành Sāvatthī để
khất thực. Bấy giờ, nơi vườn Thượng Uyển của Đức Vua Pasenadi, có một cây xoài
già cằn cỗi, người giữ vườn Thượng Uyển tên là Ganda, y nhìn thấy giữa chùm lá có
một đàn kiến vây quanh, ngạc nhiên y trèo lên xem xét thì thấy rằng đàn kiến vây
chung quanh một trái xoài độc nhất, xoài đang chín, có mùi thơm ngất. Y hái trái xoài
ấy xuống, dự định mang vào Hoàng Cung dâng lên Đức Vua Pasenadi. Trên đường đi
đến Hoàng Cung, Ganda trông thấy Đức Thiện Thệ đang ngự đi trì bình, y khởi tâm
tịnh tín, nghĩ rằng:
- Đức Vua dùng trái xoài nầy, Ngài cũng chỉ ban thưởng cho ta 8 hoặc 16 đồng
Kahāpana mà thôi. Số tiền ấy chỉ có lợi cho ta vài tháng mà thôi. Nếu giờ đây ta cúng
dường xoài nầy đến Đức Thế Tôn, ta sẽ được lợi ích suốt thời gian lâu dài. Phước báu
ấy sẽ hộ trì ta vô lượng kiếp.
Rồi y tín thành dâng xoài ấy đến Đức Thế Tôn. Bậc Đạo Sư đưa mắt nhìn lại Đại
đức Ānanda. Hiểu ý Đức Thế Tôn, Trưởng Lão Ānanda mang chiếc bát mà Tứ Thiên
Vương cúng dường, Đức Thế Tôn dùng bát ấy thọ nhận trái xoài từ tay người giữ
vườn Ganda. Ngài tỏ ý muốn ngồi tại nơi ấy, Đại đức Ānanda trải tọa cụ ra, cung
thỉnh Đức Thế Tôn ngự lên. Rồi Tôn giả Ānanda dùng nước ép xoài ra dâng lên Đức
Đạo Sư. Đức Thế Tôn thọ dụng nước xoài xong, Ngài bảo người giữ vườn Ganda
rằng:
- Nầy Ganda! Ngươi hãy gieo trồng hạt xoài nầy đi.
Ganda đào khoảng đất xốp, rồi gieo hạt xoài xuống đó, lấp đất lại. Đức Thế Tôn
ngự đến Ngài dùng nước rửa tay mình trên chỗ ấy. Khi Ngài vừa rửa tay xong, xoài
nứt mộng, mộng lên và tăng trưởng nhanh chóng, chỉ trong thời gian ngắn cây xoài
trở thành một cây cổ thụ, thân xoài to bằng cán cày, cao 50 hắc tay (25m). Cây xoài
ấy có năm tầng, một ngọn mọc thẳng, còn bốn ngọn kia xuôi theo bốn bốn hướng, mỗi
ngọn dài khoảng 50 hắc tay. Ngay khi ấy, xoài trở nên sum suê, ra hoa kết trái, rồi
chín vàng, rơi rụng xuống, chư Tỳ Khưu đi đến sau, lượm những trái xoài chín mộng
ấy dùng.
Đức Vua Pasenadi được nghe tin: “Một cây xoài kỳ diệu vừa phát sanh”. Ngài
sợ bọn ngoại giáo cho người chặt bỏ đi, nên phái quân sĩ đến canh giữ, với lịnh truyền
rằng: “Cấm bất kì ai chặt phá cây xoài nầy”.
Cây xoài ấy được mang tên là Ganda, vì là của ông Ganda trồng lên. Bọn côn đồ
nghe tin có cây xoài kỳ diệu như thế, tìm đến xem, nhặt lấy những quả xoài chín ăn,
hưởng được hương vị thơm ngọt của trái xoài, nên mắng chửi nhóm ngoại đạo rằng:
- Bọn ngoại đạo ác độc nầy, chúng được tin Sa Môn Gotama thể hiện thần thông
trên cây xoài, nên chúng cho người đến phá tất cả xoài trong thành Sāvatthī nầy.
Thậm chí những cây con vừa mọc, chúng cũng chẳng tha. Chúng khiến chúng ta
không được nếm hương vị thù diệu của xoài như xoài Ganda nầy.
Bọn côn đồ tức giận, đi tìm kiếm bọn ngoại giáo, dùng hạt xoài ném vãi vào
chúng.
Bấy giờ, nơi Thiên Cung Đao Lợi, Đức Đế Thích biết rằng: Hôm nay Đức Bổn
Sư sẽ thi triển thần lực để nhiếp phục ngoại giáo. Ngài ra lịnh cho Thiên Tử
Vātavalāhaka (Thần Gió) rằng:
- Ngươi hãy nổi cuồng phong, thổi bay tróc ngôi nhà mái nhọn của ngoại đạo đi,
hãy ném nóc nhà ấy vào đống rác trong thành Sāvatthī. Rồi Đế Thích ra lịnh tiếp cho
Thiên Tử Suriya rằng:
- Ngươi hãy chiếu ánh sáng mặt trời thật mãnh liệt vào chúng ngoại đạo, khiến
cho chúng trở nên nóng nảy.
Ngài phán bảo thêm Thiên Tử Vātavalāhaka rằng:
- Khi bọn ngoại đạo bị nắng chiếu rực vào người, mồ hôi tuôn đổ, ngươi hãy nổi
gió cuốn bụi tấp vào bọn chúng.
Hai vị Thiên Tử vâng lịnh Thiên Vương thực hành y như thế, bấy giờ nhóm
ngoại đạo đang nhễ nhại mồ hôi, một cơn gió cuốn bụi vây quanh bọn chúng, người
của chúng giống như con mối đỏ, ngôi nhà nóc nhọn của chúng bị trận cuồng phong
dữ dội thổi bay mất, ngôi nhà rơi vào đống rác lớn trong thành Sāvatthī.
Đức Đế Thích lại ra lịnh cho Thiên Tử Vassavalāhaka (Thần làm mưa) rằng:
“Ngươi hãy làm mưa rơi trên người bọn ngoại giáo đi”. Thiên Tử vâng lịnh, bây giờ,
thân hình chúng ngoại đạo giống như con bò đốm. Chúng bị nhiệt bức khi dứt cơn
mưa, ánh sáng mặt trời càng gắt chiếu vào người, chúng bỏ chạy tứ tán, chẳng còn tha
thiết chuyện đấu thần thông. Khi ấy, có gã nông dân là người hộ độ cho giáo chủ
Pūranakadasspa, y suy nghĩ rằng:
- Chắc giờ nầy Giáo chủ của ta đang thi triển thần thông, vậy ta hãy đến xem
Thần lực của Giáo chủ ta.
Y thả bò ra, mang theo sợi dây cột bò cùng với cái nồi cháo, trên đường đi đến
thành, y trông thấy vị Giáo chủ của mình đang chạy trốn, y liền gọi rằng:
- Bạch Ngài! Tôi đến để xem Ngài thi triển thần thông đây. Ngài bỏ chạy đi đâu
thế?
- Ngươi cần thiết chi với thần thông chứ, hãy trao sợi dây và cái nồi cháo cho ta
ngay đi.
Pūrana cầm lấy nồi cháo cùng với sợi dây mà gã nông dân đệ tử vừa trao cho,
chạy thẳng ra bờ sông, cột nồi vào cổ mình rồi nhảy xuống sông để tránh sự nhiệt bức
bởi ánh mặt trời, bọt nước bắn lên tung tóe, Pūrana mệnh chung dưới dòng sông ấy và
rơi vào A Tỳ địa ngục.
Vào xế chiều, Đức Như Lai ngự trong Hương thất, Ngài suy nghĩ rằng:
“Đây là giờ hợp lẽ, Như Lai sẽ thể hiện Phật Lực”.
Đấng Như Lai hóa hiện ra con đường kinh hành bằng ngọc Maṇi trên hư không.
Chỗ tận cùng của con đường là tận cùng của vũ trụ về phương Tây.
Hội chúng thấy được kinh hành lộ bằng ngọc Maṇi như thế, vô cùng hoan hỷ, tụ
tập lại nơi ấy một khoảng rộng lớn đến cả 36 do tuần. Rồi từ trong Hương thất, Đức
Thế Tôn ngự ra, tiến về phía cây xoài Ganda. Khi ấy một cận sự nữ đã chứng đạt Bất
Lai Quả, đi đến đảnh lễ Đức Thế Tôn, bạch rằng:
- Bạch Thế Tôn! Xin ngài chớ nhọc sức làm chi, khi Ngài có được đứa con gái
như con. Con sẽ thể hiện thần thông thay thế Ngài.
- Nầy Ganranī! Ngươi sẽ thể hiện thần thông như thế nào?
- Bạch Thế Tôn! Con sẽ biến vũ trụ nầy thành nước, nhưng mọi chúng sanh đều
an toàn, con sẽ lặn trong nước ấy như con ngỗng trời, nổi lên ở ranh giới vũ trụ về
phương Đông, phương Nam, phương Tây và phương Bắc, sau cùng con nổi lên ở giữa
quả địa cầu cho đại chúng tận tường. Khi sự kiện xảy ra như thế, đại chúng sẽ nói:
“Nàng là ai?”. Con sẽ đáp rằng: “Tôi là một cận sự nữ của Đức Thế Tôn, tên
Gharanī”. Đại chúng sẽ nghĩ rằng: Chỉ là một cận sự nữ mà có được thần lực như
thế, thì còn nói gì đến oai đức của Đức Thế Tôn chứ. Và bọn ngoại đạo không kịp
trông thấy Ngài, họ đã trốn chạy mất.
- Nầy Gharanī! Như Lai biết ngươi có khả năng thể hiện thần thông như thế.
Nhưng vòng vương miện nầy họ không dành cho ngươi đâu.
Ngài khước từ lời thỉnh cầu của nàng Gharanī. Nàng suy nghĩ: Bậc Đạo Sư từ
chối ta, chắc có người khác có khả năng thần thông để thể hiện rồi.
Và nàng lui đứng sang một bên. Bậc Đạo Sư quán xét rằng:
- Thật vậy, trong hàng cận sự nữ của Như Lai, cũng có được đạo hạnh như thế.
Rồi Ngài quán xét thấy được rằng:
“Đệ tử của Đấng Như Lai sẽ rống tiếng rống sư tử giữa đại chúng 36 do tuần
nầy”.
Chư Thánh đệ tử Thinh Văn ấy lần lượt tỏ bày rằng:
- Bạch Thế Tôn! Con sẽ thể hiện thần thông như thế nầy…
Trước mặt Đức Thế Tôn, giữa đại chúng rộng cả 36 do tuần ấy, các Ngài đã rống
lên tiếng rống của con sư tử đang thời sung sức.
Được nghe lại rằng: Trong hàng cận sự nam, có Trưởng giả Cūla Anāthapiṇḍika
suy nghĩ rằng:
- Khi Đức Thế Tôn có được người con trai như ta, là bậc Bất Lai Quả, Ngài
chẳng can chi vất vả cả.
Ông liền bạch với Đức Thế Tôn rằng:
- Bạch Thế Tôn! Con sẽ hoán hiện như vị Phạm Thiên cao lớn khoảng 12 do
tuần, phát ra Phạm âm vang như sấm động giữa đại chúng. Mọi người đều nghe rõ
ràng phạm âm, sẽ nói rằng:
- “Đây là âm thanh của Phạm Thiên, được ông Cūla Anāthapiṇḍika phát ra bởi
thần lực”.
Bọn ngoại giáo sẽ nghĩ rằng:
“Thần lực của gia chủ, chỉ là một cận sự của Đức Thế Tôn thôi, mà còn có oai
lực như thế, thì còn nói chi đến oai lực siêu việt của Đức Thế Tôn chứ. Và chúng chưa
kịp nhìn thấy Ngài, đã kinh hoàng bỏ chạy trốn”.
- Nầy Cūlānāthapinṇḍika! Như Lai vẫn biết ngươi sẽ thực hiện được điều đó.
Nhưng đây không phải là phận sự của ngươi. Đây là việc làm của Đấng Như Lai.
Đức Thế Tôn từ chối sự thỉnh cầu của gia chủ Cūlānāthapiṇḍika, không chấp
thuận cho ông thể hiện thần thông.
Kế đến có vị sa di ni, tuổi vừa lên 7 nàng đã chứng đạt Tuệ Phân Tích, đến đảnh
lễ Đức Thế Tôn bạch rằng:
- Bạch Thế Tôn! Con sẽ thực hiện pháp thần thông.
- Này Vīrā! Ngươi sẽ làm như thế nào?
- Bạch Thế Tôn! Con sẽ mang quả núi Sineru, núi Luân Vi và núi Hy Mã đặt
giữa đại chúng nầy, rồi từ những quả núi ấy, con chui ra nhẹ nhàng, bay lượn giữa hư
không như con hạc chúa vàng. Đại chúng sẽ hỏi nhau rằng: “Người nầy là ai thế?”.
Con sẽ trả lời rằng: “Ta là Sa di ni Vīrā”. Đại chúng sẽ suy nghĩ rằng: “Vị Sa di ni
mới 7 tuổi mà có đại thần lực như thế, thì còn nói gì đến oai lực Đức Như Lai chứ”.
Bọn ngoại giáo sẽ kinh hoàng, không kịp nhìn thấy Ngài đã bỏ chạy trốn mất”.
- Nầy Sa di ni Vīrā! Như Lai biết ngươi có thể thực hiện được điều đã nói.
Nhưng đây không phải là phận sự của ngươi.
Đến Sa di Cunda, là bậc Lậu Tận chứng đạt Tuệ Phân Tích, Ngài cũng vừa tròn
bảy tuổi, đến đảnh lễ Đức Thế Tôn, bạch rằng:
- Bạch Thế Tôn! Con sẽ thể hiện thần thông lực.
- Nầy Sa di Cunda! Ngươi sẽ làm như thế nào?
- Bạch Thế Tôn! Con sẽ nắm lấy Hồng quân lớn, làm thành cột cờ của cõi Diêm
Phù, rung mạnh cho trái Hồng quân rơi rụng xuống, đại chúng nhặt lấy dùng. Và con
sẽ hóa hiện hoa mạn đà rơi như mưa để cúng dường Đức Thế Tôn.
- Nầy Cunda! Như Lai biết rằng ngươi sẽ thực hiện được những điều như ngươi
đã nói. Nhưng đây không phải là phận sự của ngươi.
Tiếp theo là vị Thánh Nữ đệ nhị của Đức Thế Tôn là nàng Uppalavannā, bước ra
đảnh lễ Đức Thế Tôn, bạch rằng:
- Bạch Thế Tôn! Con sẽ thực hiện thần thông lực.
- Nầy Uppalavannā! Ngươi sẽ làm thế nào?
- Bạch Thế Tôn! Con sẽ hóa thành vị Chuyển Luân Vương, có hội chúng vây
quanh rộng 6 do tuần. Vị Vua Chuyển Luân với đầy đủ 7 báu ấy cùng đại chúng rộng
lớn đi đến đây đảnh lễ Đức Thế Tôn.
- Nầy Uppalavannā! Như Lai biết ngươi sẽ thực hiện được điều ngươi vừa nói.
Nhưng đây không phải là phận sự của ngươi.
Tiếp đến, Trưởng lão Moggallāna, vị Thượng Thủ Thinh Văn đệ nhị bước đến
đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin phép Ngài cho thi triển thần thông.
- Nầy Moggallāna! Ngươi sẽ thực hiện được điều gì?
- Bạch Thế Tôn! Con sẽ đặt núi Sineru ở giữa đôi hàm răng, rồi con nhai núi ấy
như nhai hạt cải.
- Ngươi còn thực hiện được điều gì nữa?
- Con sẽ đặt quả địa cầu nầy vào lòng tay trái, đặt tất cả sinh chúng trên địa cầu
vào lòng tay phải.
- Ngươi còn làm chi nữa?
- Con sẽ dùng núi Sineru làm thành các lọng, che cho quả địa cầu, rồi một tay
cầm lấy núi Sineru như cầm lọng trong tay, đi kinh hành giữa hư không.
- Nầy Moggallāna! Như Lai biết ngươi thực hiện được những điều như thế.
Nhưng đây không phải là phận sự của ngươi.
Trưởng lão Moggallāna suy nghĩ: Có lẽ Đức Đạo Sư biết người sẽ thể hiện thần
thông rồi. Trưởng lão lui ra đứng vào nơi thích hợp. Bây giờ, Đức Thế Tôn phán dạy
Trưởng lão Moggallāna rằng:
- Nầy Moggallāna! Vòng hoa nầy không phải dành cho ngươi hay bất cứ ai trong
đại chúng. Vì rằng: Phận sự nào của Như Lai, thì không một ai có thể làm thay được.
Không một ai có thể nhận lãnh phận sự Như Lai trong hiện tại đây, không phải là điều
kỳ diệu, mà trong thời quá khứ, việc làm của Như Lai, khi ta sanh làm hạng người vô
nhân là bàng sanh, việc làm của Ta cũng chẳng có ai có thể thay thế làm được rồi.
- Bạch Thế Tôn! Câu chuyện ấy như thế nào vậy?
Theo lời thỉnh cầu chư Tỳ khưu, Đấng Như Lai thuyết giảng lên Túc Sanh
Kanhavisabha với chi tiết như sau:
“Công việc nặng có trong thời nào, con đường khó khăn trong thời nào. Chính
trong thời ấy, người chủ bò Kanha, chính bò Kanha ấy giải quyết được công việc ấy
mà thôi”.
Rồi Ngài thuyết lên Bổn Sanh ly kỳ Nandavisābha chi tiết như sau: “Người chỉ
nên nói lời tao nhã, không nói lời thô ác. Khi Bà la môn nói lời tao nhã, bà Nanda
mới kéo được chiếc xe nặng được, khiến Bà la môn ấy được tài sản. Bà la môn ấy có
tâm thỏa thích vì nhận được tài sản lớn”.
Sau khi thuyết giảng xong Bổn Sanh, Đức Thế Tôn ngự lên con đường kinh hành
bằng Ngọc Maṇi ở giữa 24 do tuần đại chúng, phía trái phía phải, trước sau là 12 do
tuần đại chúng. Tất cả đều trông thấy rõ ràng như hiện ra trước mắt mình. Đức Thế
Tôn hiển lộ Song Thông Lực giữa đại chúng ấy.
Bậc trí nên hiểu Song Thông Lực ấy theo ý nghĩa Pāli như vậy:
- Thế nào là Song Thông Tuệ của Đấng Như Lai? Tuệ nầy chỉ có đối với bậc
Chánh Đẳng Giác, không phổ cập đến Thinh Văn Đại Đệ Tử. Hàng Thinh Văn không
thể nào có được Song Thông Tuệ. Trong cùng một lúc, Ngài an trú vào hai đề mục,
từ kim thân Ngài lửa và nước cùng tuôn ra, bên phải phun lửa, bên trái tuôn nước, bên
trái tuôn lửa thì bên phải phun nước. Phía trên ra lửa, phía dưới ra nước, phía trên
tuôn nước, phía dưới phun lửa. Phía trước hiện lửa, phía sau hiện nước, phía trước
hiện nước, phía sau hiện lửa. Mắt nầy phun lửa, mắt kia phun nước và ngược lại. Tai
nầy ra lửa tai kia ra nước và ngược lại. Đầu thượng y bên nầy ra lửa, đầu thượng y bên
kia ra nước và ngược lại. Ngón tay tuôn lửa, kẽ tay tuôn nước và ngược lại. Lông tuôn
nước thì chân lông tuôn lửa và ngược lại. Hông nầy ra lửa thì hông kia ra nước và
ngược lại. Chân nầy ra lửa thì chân kia ra nước và ngược lại. Hay là thân trên có màu
xanh, thân dưới có màu đỏ và ngược lại… Hào quang sáu màu xanh-đỏ-vàng-trắng
cam và dợn sóng tuôn ra như vàng tuôn chảy không ngớt từ nồi nấu vàng, khắp cả
mười muôn triệu thế giới đều sáng ngời Phật Quang.
Đức Thế Tôn hóa hiện một vị Phật Chánh Đẳng Giác giống như Ngài. Khi hiện
thân đi thì hóa thân ngồi, đứng hoặc nằm và ngược lại khi hóa thân đi thì hiện thân
đứng, nằm hay ngồi… Hiện thân vấn đạo thì hóa thân đáp, hóa thân vấn pháp thì hiện
thân trả lời. Đây là Song Thông Tuệ của Đức Chánh Đẳng Giác. Bậc Đạo Sư ngự đi
trên kinh hành lộ ngọc Maṇi, Ngài thể hiện song thông trí như thế, nêu lên ý nghĩa
rằng: Kim thân phía trên phun lửa là do định lựa từ Tejokasina (đề mục lửa), kim thân
phía dưới phu nước là do định lực Āpokasina (đề mục nước), hay bên phải có màu
xanh là do định lực đề mục Xanh (Nilakasina), nên trái có màu đỏ là do định lực
Lohitakasina (đề mục Đỏ)… Lửa phun ra từ nước, nước tuôn ra từ lửa. Ánh sáng xanh
từ trong ánh sáng đỏ phát ra, ánh sáng đỏ từ trong ánh sáng xanh hiện khởi…
Trưởng lão Sāriputta có giải rằng:
Ý nghĩa của những câu văn nầy cũng như thế. Song Thông Lực nầy là: Lửa
không lẫn với nước, nước chẳng phải lẫn với lửa. Và cả nước với lửa ấy đã xông tới
tận Phạm Thiên Giới, rồi lan rộng khắp mọi Luân Vi trong vũ trụ. Vì thế, Trưởng Lão
Sāriputta mới giải rằng: “Channam Vannānam… hào quang sáu màu của Bậc Đạo
Sư phóng ra khắp vũ trụ như khoáng chất vàng tuôn chảy từ nồi luyện kim, thấu đến
tận Phạm Thiên Giới rồi phản chiếu khắp cùng vũ trụ, ánh sáng đều đồng nhất rực rỡ
ví như: Diêm phù nầy là trung tâm, tựa cội Bồ Đề được đóng cướng với những cọc
sắt, từ nơi ấy phát ra ánh sáng lan rộng khắp nơi đồng nhất như nhau.
Ngày hôm ấy, Đức Đạo Sư đi kinh hành trên Ngọc lộ, thuyết pháp thoại giữa đại
chúng bằng cách vấn đáp với vị Phật hóa thân, làm cho đại chúng thêm hiểu nghĩa
văn thâm mật của Phật Ngôn rõ ràng. Tiếng tán dương vang dội, tiếng Sādhu từ đại
chúng vang rền như tiếng sấm nổ giữa trời quang đảng. Bậc Đạo Sư dùng Phật tuệ
quán xét cơ tính chúng sanh của đại chúng ấy, Ngài thấu hiểu tâm chúng sanh đủ cả
16 chi phần. Tâm Chư Phật diễn tiến rất nhanh như thế, người tịnh tín với Pháp nào và
loại thần thông nào, Ngài thuyết lên Pháp ấy và loại thần lực ấy, tùy theo cơ tánh từng
chúng sanh. Ngài thuyết pháp hợp theo cơ tánh ấy. Khi Ngài thể hiện Song thông lực
và thuyết pháp thoại như thế, chúng sanh đắc chứng đạo quả không thể kể đến số
lượng được. Vì sao Ngài lại hóa thân thêm một vị Phật nữa? Vì rằng: Ngài biết rõ
rằng: Giữa Đại chúng nầy, không một ai có thể giải đáp những câu hỏi thuộc về Phật
Giới, cũng không một ai có thể đặt được một câu hỏi thuộc cảnh giới Phật Tuệ. Do
đó, Ngài phải hóa thân thêm một vị chánh Đẳng Giác như Ngài, khi vị Hóa thân hỏi
thì Hiện thân đáp. Nên để nêu lên ý nghĩa nầy, các Luận Giải Sư đã nói: “Đức Phật
hóa thân đi kinh hành thì Đức Phật hiện thân ngồi tham thiền…”.
Có đến 22 koti (220 triệu) chúng sanh đắc Pháp do thấy được Song Thông Trí
mà bậc Đạo Sư thể hiện cùng với sự nghe Pháp Bảo từ hai vị Phật ấy.
Sau khi thể hiện Song Thông Lực rồi, Đức Thế Tôn suy nghĩ rằng:
- Chư Phật quá khứ, sau khi dùng thần thông nhiếp phục ngoại đạo rồi, Ngài ngự
đi đâu? Nhập hạ tại nơi nào?
Với Phật Trí, Ngài thấy rằng: Sẽ an cư tại cõi Đao Lợi, thuyết lên Tạng Thắng
Pháp để tế độ Phật mẫu.
Sau khi hiểu rõ điều nầy, Ngài đưa chân phải lên đỉnh núi Yugandhara, núi
Sineru dường như chạy đến hạ thấp xuống thỉnh rằng: “Xin Bậc Đại Giác hãy đặt
chân Ngài lên đỉnh nầy”. Ngài đưa chân trái lên đỉnh Sineru, núi Sineru dường như
vươn thẳng người, đưa Ngài đến cõi Đao Lợi. Khoảng cách ba bước chân ấy là sáu
mươi tám trăm ngàn do tuần (6.800.000). Hai chân Ngài đều duỗi thẳng ra như bình
thường ngự đi trì bình. Không nên nghĩ rằng: Đức Thế Tôn đưa chân lên cao rồi đặt
xuống, vì khi Ngài đưa chân tới trước thì các đỉnh núi như chạy đến đỡ chân Ngài, khi
chân Ngài rời khỏi thì như chạy trở về vị trí cũ. Đức Đế Thích trông thấy Bậc Đạo Sư
ngự đến, Ngài suy nghĩ rằng:
- Đức Thế Tôn Ngài ngự lên đây để an cư mùa mưa, Ngài sẽ ngự nơi tảng đá
vàng Pandukambala. Khi Đức Thế Tôn ngự đến nơi nầy, chư thiên sẽ phục vụ Ngài,
các Thiên Nhân không thể có sự dễ duôi trong phận sự ấy được. Nhưng tảng đá
Pandukambala nầy dài 60 do tuần, rộng 50 do tuần, cao 15 do tuần, Đức Thế Tôn ngự
lên trên đó quả thật là trống rỗng.
Hiểu được tư tưởng ấy của Đức Đế Thích, Đức Thế Tôn liền trải tọa cụ ra, phủ
trọn vẹn tảng đá vàng Pandukambala, rồi ngự ngồi trên ấy. Thiên chúa lại suy nghĩ
rằng: “Đức Thế Tôn trải tọa cụ như thế, nhưng Ngài chỉ ngồi chút ít thôi”.
Biết được ý nghĩ nầy, Đức Thế Tôn liền thu tảng đá Pandukambala vừa dặn với
tọa cụ và Ngài ngồi vừa vặn với tọa cụ ấy, giống như vị Tỳ khưu mặc phấn tảo y ngồi
thường nhật trên tọa cụ của mình.
Đức Đế Thích mục kích cảnh tượng thù diệu ấy, Ngài vô cùng hoan hỷ, đảnh lễ
Đức Thế Tôn, Ngài phán rằng:
- Nầy Đế Thích, ngươi chớ nghĩ rằng Ngai vàng nầy rộng lớn đối với Như Lai.
Như Lai hành pháp độ với vô lượng kiếp, mong chứng đạt Vô Thượng Chánh Đẳng
Giác, thì không phải là nhỏ đâu.
Bây giờ, nơi nhân giới, đại chúng bỗng nhiên thấy Đức Thế Tôn biến mất, ví như
ánh mặt trời cùng mặt trăng cùng vụt tắt. Đại chúng than khóc rằng:
- Bậc Đạo Sư đã ngự đến núi Cittakūta hay núi Kreylāsa hoặc núi Yugandhara
mất rồi, từ nay chúng ta không còn được thấy Ngài nữa, Bậc Chánh Đẳng Giác không
còn trở về với chúng ta
.
Nhóm khác thì sầu khổ than khóc rằng:
- Bậc Đạo Sư là bậc hàng an trú nơi thanh vắng, tán thán nơi an tịnh, nay Ngài
đã ngự đến nơi khác, vì Ngài nghĩ rằng: “Ta đã thể hiện Song Thông như vậy với đại
chúng”. Hẳn là chúng ta không còn được chiêm bái Ngài nữa rồi. Họ nói lên kệ ngôn
rằng:
“Ngài là bậc Thượng Trí, Ngài vui thích nơi thanh vắng, không còn trở lại thế
gian nầy nữa. Chúng ta không còn thấy Bậc Chánh Đẳng Giác, bậc chúa tể của thế
gian, bậc cao quý hơn cả nhân thiên”.
Đại chúng liền đi đến bạch hỏi Trưởng Lão Moggallāna rằng:
- Bạch Ngài, Đức Đạo Sư của chúng tôi đang ngự trú nơi nào?
Quán xét rõ việc Đức Thế Tôn an cư mùa mưa nơi cõi Đao Lợi, Trưởng Lão
Moggalāna đáp rằng:
- Các người nên đến hỏi Tôn giả Anuruddha, bậc đệ nhất Thiên Nhãn trong hàng
Thinh Văn.
Sở dĩ, Đại đức Moggallāna không trả lời, và khuyên dạy thính chúng đến hỏi
Tôn Giả Anuruddha, vì Ngài muốn cho đại chúng hiểu rằng: Các Công hạnh của
Thánh Thinh Văn thật thù diệu, và làm công hạnh của chư Thánh Thinh Văn được
hiển lộ.
Đại Chúng đi đến bạch hỏi Trưởng Lão Anuruddha rằng:
- Bạch Ngài, Đức Đạo Sư của chúng tôi ngự nơi nào?
- Ngài đang an ngự trên cõi Đao Lợi, nơi tảng đá Pandukambala là ngai vàng của
Thiên Vương Đế Thích, để tuyên thuyết Tạng Thắng Pháp tế độ Mẫu hậu Māyā.
- Bạch Ngài! Bao giờ Đức Đế Thế Tôn trở về nhân giới?
- Ngài sẽ thuyết tạng Thắng Pháp trọn cả ba tháng trường (tính theo cõi nhân
loại). Rồi Ngài sẽ trở về nhân giới trong ngày Tự Tứ (Mahāpavāranā).
Đại chúng bàn nhau rằng: “Chúng ta sẽ không rời khỏi nơi nầy nếu chưa gặp
Đức Đạo Sư trở về”. Và họ cư ngụ tại nơi ấy. Tương truyền rằng: Đại chúng dùng hư
không làm màn, lấy mặt đất làm chiếu trải, nhưng cả đại hội chúng to lớn như thế
cũng không làm cho mặt đất nơi ấy trở nên chật và ô nhiễm, mặt đất gồ ghề ở nơi ấy
bỗng trở nên bằng phẳng cho đại chúng và rộng rãi. Sự sạch sẽ luôn hiện đến với đại
chúng. Trước đó, Bậc Đạo Sư đã phán dạy Tôn Giả Moggallāna rằng:
- Nầy Moggallāna! Ngươi hãy thuyết pháp đến đại chúng ấy. Còn gia chủ Cūla
Anāthapiṇḍika hãy bố thí vật thực đến đại chúng.
Trưởng giả Cūla Anāthapiṇḍika bố thí đến đại chúng cơm, cháo, vật thực, cau,
trầu, vật thơm, vật thoa và vật trang điểm cho đại chúng cả sáng lẫn chiều, hay trong
mỗi giờ. Đại thí ấy được thực hiện cả ba tháng trọn vẹn như thế. Riêng Tôn Giả
Moggallāna thì thuyết lên Pháp thoại, giải đáp những thắc mắc, đoạn nghi cho đại
chúng đến chứng kiến Thần Thông của Đức Phật tại nơi ấy.
Nơi Thiên Giới Đao Lợi, Chư Thiên trong 10 muôn triệu thế giới được biết Đức
Thế Tôn an cư tại cõi Đao Lợi nên cùng nhau vân tập đến cõi Đao Lợi ấy, nên các
Luận Giải Sư đã ghi rằng:
- Trong thời Đức Phật là bậc cao quý nhất trong nhân, thiên giới, Ngài ngự nơi
tảng đá vàng Pandukambala, dưới cội cây Pāricchattaka ở Đao Lợi Thiên. Bấy giờ,
Chư Thiên trong 10 muôn triệu thế giới Sa bà cùng nhau tụ hội đến đảnh lễ Đức
Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài ngự trên đỉnh núi Sineru ấy, không một Thiên nhân nào
sáng rực hơn Đức Chánh Đẳng Giác, chỉ có Đức Chánh Đẳng Giác hằng sáng ngời
hơn tất cả Thiên nhân.
Đức Thế Tôn ngự giữa ngai vàng Kambala như thế, Đức Đế Thích hiểu biết với
trí của mình rằng: “Đức Thế Tôn ngự đến cõi Đao Lợi nầy, với mục đích là tế độ Mẫu
hậu Māyā của Ngài”. Tự thân Đức Đế Thích đi đến cung trời Tusitā cung thỉnh Thiên
Tử Māyā từ nơi cung trời Tusitā ngự xuống cõi Đao Lợi, và ngồi bên tay phải của
Đức Thế Tôn.
Khi ấy, có hai vị Thiên Tử là Indaka cũng ngồi phía bên phải Đức Thế Tôn và
Thiên Tử Anruka thì ngồi phía tay trái của Ngài. Khi Chư Thiên có đại oai lực đi đến,
Thiên nhân nào kém oai lực thì phải đứng dậy nhường chỗ ngồi lui ra sau. Và Thiên
Tử Ankura phải lui ra xa cả 12 do tuần, trái lại Thiên Tử Indaka vẫn ngồi yên một
chỗ. Thấu rõ sự kiện nầy như thế nào rồi, nhưng Bậc Đạo Sư muốn cho Chư Thiên
thấy rõ oai lực thù diệu của ân đức Phật Đạo rằng: “Vật thí mà tín gia cúng dường đến
bậc đáng cúng dường trong Phật Giáo, tuy vật thí dù nhỏ chút ít vẫn có đại oai lực
thù thắng, có đại quả báu”. Ngài phán hỏi Thiên Tử Anruka rằng:
- Nầy Ankura! Ngươi thọ sanh vào cảnh Thiên Giới nầy là do phước thiện nào
thế?
- Bạch Thế Tôn! Khi còn là nhân loại, con hằng bố thí đến chúng nhân, con đã
cho xây lò bếp dùng nấu vật thực bố thí, dài đến 12 do tuần. Con hành thí sự ấy suốt
cả 10 ngàn năm như thế. Quả thiện ấy cho con được tái sanh vảo cảnh giới nầy.
- Nầy Indaka! Ngươi tái sanh cõi Đao Lợi là do quả thiện nào?
- Bạch Thế Tôn! Khi còn là người, con cúng dường đến Trưởng Lão Anuruddha
một vá cơm. Do nhân ấy, con được thọ sanh về cõi nầy.
- Nầy Ankura! Ngươi đã hành thí sự suốt 10 ngàn năm, xây lò bếp dài 12 do
tuần. Thế vì sao, hiện nay trong hội chúng nầy, ngươi lại lui ra xa đến 12 do tuần như
thế?
Thật vậy, các Luận Giải Sư đã thuyết lên rằng:
Bậc Chánh Đẳng Giác thay Thiên Tử Ankura và Indaka, Ngài tán dương sự cúng
dường bậc đáng tôn kính, đáng cúng dường trong câu Phật Ngôn nầy: “Nầy Ankura!
Ngươi đã bố thí rất nhiều trong khoảng thời gian dài 10 ngàn năm, xây bếp lò dài cả
12 do tuần. Nhưng khi đến hội chúng Thiên nhân nầy, vì sao ngươi lại lui xa 12 do
tuần như thế?”.
Âm thanh vi diệu của Đức Thế Tôn xuyên suốt cả kinh thành Sudassana là thành
phố Chư Thiên cõi Đao Lợi, lan đến nhân giới. Đại chúng đó đã nghe được Phật âm vi
diệu ấy.
Nghe Bậc Đạo Sư phán hỏi như thế, Thiên Tử Ankura buồn rầu đáp:
- Bạch Thế Tôn! Con cầu mong được gì nơi quả phước ấy, vì con tạo phước vào
thời không có Phật Pháp, không có bậc đáng cúng dường. Dạ Xoa Indaka chỉ cúng
dường chút ít, nhưng được cúng dường vào thời có Phật Pháp, cúng dường đến bậc
đáng cúng dường nên vị ấy có nhiều oai lực hơn con. Ví như vầng trăng rực sáng
trong chòm sao như thế.
(Trong những câu văn ấy, chữ Dajjā đổi thành Datvā nghĩa là đã cho). Nghe
Thiên Tử Ankura bạch như thế, Đức Thế Tôn phán hỏi Thiên Tử Indaka rằng:
- Nầy Indaka! Vì sao chỉ với chút ít vật thí như thế, mà ngươi có đại oai lực,
ngươi không lui ra như vậy?
- Bạch Thế Tôn! Con đã cúng dường đến bậc đáng cúng dường, ví như người
nông dân gieo hạt vào ruộng màu mỡ, dù chỉ là ít hạt giống nhưng được nhiều kết quả.
Sau khi nêu lên sự kiện cúng dường đến bậc cúng dường như thế. Thiên Tử
Indaka bạch tiếp rằng:
- Bạch Thế Tôn! Dù là hạt giống nhiều, nhưng gieo vào ruộng xấu khô cằn thì
kết quả không sung mãn, không thể làm người nông dân ấy hài lòng hoan hỷ như thế
nào, cũng vậy người bố thí nhiều đến những kẻ ác giới thì quả phước không được
sung mãn, thí nhân ấy hằng không được hoan hỷ với quả ấy. Trái lại, tuy ít hạt giống,
nhưng được gieo vào ruộng tốt, đúng thời mưa thuận gió hòa, thì quả sẽ sung mãn,
khiến người nông dân hoan hỷ hả dạ. Cũng như thế ấy, thí vật tuy chút ít, nhưng được
dâng cúng đến bậc đáng cúng dường là bậc có giới đức, chắc chắn quả ấy sẽ cho
người làm thí sự hoan hỷ như thế.
Hỏi rằng: Tiền nghiệp của Thiên Tử Indaka ấy là thế nào?
Đáp rằng: Được biết Thiên Tử Indaka đã cúng dường một vá cơm đến Trưởng
Lão Anuruddha, khi Ngài đang trì bình khất thực trong thành. Nên quả phước của vị
ấy có nhiều quả báu hơn sự bố thí của Thiên Tử Ankura xây bếp lò cả 12 do tuần, bố
thí suốt thời gian 10 ngàn năm. Do đó, Thiên Tử Indaka mới bạch như thế.
- Nầy Ankura! Sự lựa chọn bậc đáng cúng dường rồi cúng dường, thí sự ấy
thường có nhiều quả báu. Ví như hạt giống mà được gieo xuống ruộng tốt như vậy.
Nhưng ngươi không làm như thế, do vậy thí sự của ngươi mới không có quả tối
thắng.
Rồi Ngài nêu lên ý nghĩa để làm sáng tỏ vấn đề nầy:
“Sự bố thí mà người đã bố thí trong chỗ nào có quả nhiều, người nên lực chọn
rồi bố thí trong chỗ ấy. Sự chọn lựa để cúng dường mà Đức Thiện Thệ tán dương là
thí sự đến bậc cúng dường hiện hữu trong thế gian, sẽ có quả nhiều, ví như hạt giống
được gieo vào ruộng tốt không cỏ dại”.
Ngài tuyên thuyết lên kệ ngôn rằng:
Ruộng có cỏ là độc hại, chúng sanh có ái là độc hại. Vì vậy sự thí mà người đã
bố thí đến người đã đoạn tận ái có nhiều quả.
Ruộng có cỏ là độc hại, chúng sanh có sân hận là độc hại. Vì vậy sự thí mà
người đã bố thí đến người đã đoạn tận sân có nhiều quả.
Ruộng có cỏ là độc hại, người có si mê là độc hại. Vì vậy sự thí mà người đã bố
thí đến người đã đoạn tận si có nhiều quả.
Ruộng có cỏ là độc hại, chúng sanh có tham là độc hại. Vì vậy sự thí mà người
thí đến bậc đã đoạn tận tham có nhiều quả.
Dứt kệ ngôn, hai Thiên Tử Ankura và Indaka đều an trú vào Dự Lưu Quả.
Thế rồi, Bậc Đạo Sư ngồi giữa Đại chúng thiên nhân, đề cập đến Phật mẫu rằng:
- Mẫu hậu hãy đến đây, lắng nghe Pháp Như Lai. Như Lai sẽ đền đáp công ơn
của người đã nuôi dưỡng Như Lai trong vòng luân hồi.
Ngài nghĩ tiếp: Công ơn của Mẫu hậu Māyā đối với Ta thật là vĩ đại. Vậy ta phải
dùng Pháp môn nào để đền đáp cho xứng đáng ơn nghĩa thâm sâu kia? Ngài thấy rằng
chỉ có Thắng Pháp Tạng mới xứng đáng với công ơn của Bà Māyā nuôi dưỡng Ngài
khi Ngài còn lang thang trong vòng luân hồi. Và Ngài khởi đầu thuyết lên Tạng
Thắng Pháp rằng: “Kusalādhammā, akusalādhammā, abyākatā dhammā…”. Đức Thế
Tôn thuyết Tạng Diệu Pháp theo cách nầy trọn cả ba tháng. Trong khi Ngài ngự đi
khất thực thì Ngài hóa thân một vị Phật như Ngài và vẫn tiếp tục thuyết Pháp với sự
chú nguyện rằng: “Vị Phật hóa thân nầy sẽ thuyết pháp cho đến khi Như Lai trở về”.
Rồi Ngài ngự đến rừng Tuyết Lãnh, đánh răng bằng cây chà răng của rừng ấy ở
hồ Anotatto trong rừng Anāgalatā. Ngài ngự đi khất thực ở xứ Kuru (Bắc Cưu Lưu
Châu), khi khất thực xong, Ngài ngự về ngôi nhà lớn nơi thành Sankassa. Khi ấy, Tôn
Giả Sāriputta quán:
- “Bậc Đạo Sư hiện đang trú tại đâu?”. Khi biết Đức Thế Tôn đang ngự tại
thành Sankassa, Trưởng Lão đi đến phục vụ Đức Thế Tôn.
Đức Thế Tôn khi thọ thực xong, Ngài phán dạy Trưởng Lão Sāriputta rằng:
“Nầy Sāriputta! Hôm nay ta sẽ thuyết Pháp như thế như thế. Ngươi hãy thuyết lại ý
nghĩa nầy đến 500 vị tân Tỳ khưu vừa mới xuất gia của ngươi đi”.
- Thưa vâng! Bạch Thế Tôn.
Tương truyền rằng: Có 500 thiện gia từ khi được chứng kiến Song Thông Lực
của Đức Thế Tôn, phát tâm tịnh tín mãnh liệt nơi Phật Lực, cả 500 vị đã xin xuất gia
ngay khi ấy, và Tôn Giả Sāriputta đã tiếp độ cho 500 vị thiện gia tử ấy trong trú xứ
của mình. Lời dạy của Đức Thế Tôn là Ngài ám chỉ đến 500 tân Tỳ khưu ấy.
Sau khi phán dạy xong, Đức Thế Tôn ngự lên cõi Đao Lợi, vị Phật hóa thân biến
mất và Đức Phật tiếp tục thuyết lên Pháp thoại Thắng Pháp. Riêng Ngài Sāriputta trở
về trú xứ của mình, thuyết lên Pháp mà Đức Đạo Sư vừa tóm tắt cho mình đến các vị
tân Tỳ khưu một cách rộng rãi. Khi vừa mãn ba tháng an cư thì nhóm Tỳ khưu ấy đã
thông suốt trọn vẹn 7 bộ Thắng Pháp.
Được nghe lại rằng: Trong thời Giáo Pháp của Đức Chánh Đẳng Giác Kassapa,
có một đàn dơi 500 con trú tại một hang động trong núi. Bấy giờ, có hai vị Tỳ khưu
trong Giáo Pháp Đức Phật Kassapa cũng trú ngụ nơi động ấy, khi các Ngài kinh hành
hay ngồi lại cùng nhau, hằng tụng niệm Abhidhamma. Đàn dơi ấy bắt lấy cảnh thinh
ấy, với ấn tượng rằng đây là Pháp chư Phật. Đàn dơi ấy không thể hiểu rằng: “Đây là
uẩn, đây là xứ, đây là Giới…”, chúng chỉ bắt lấy tiếng tụng niệm làm cảnh với ấn
tượng là lời Phật dạy mà thôi. Sau khi mệnh chung, cả 500 con dơi ấy tái sanh lên
Thiên giới, thọ hưởng Thiên sản trọn một kiếp Phật. Mạng chung từ Thiên giới, 500 vị
Thiên Tử tái sanh vào nhân giới trong thời Phật hiện tại, ở trong thành Sāvatthī. Nhân
dịp mục kích được quang cảnh hy hữu của Song Thông Trí của Đấng Như Lai. Cả 500
thiện gia tử ấy khởi tâm tịnh tín, xin xuất gia trong Pháp Luật của Đức Thế Tôn, và
Trưởng Lão Sāriputta đã tế độ 500 thiện gia tử ấy trong trú xứ của mình. Và trong ba
tháng an cư mùa mưa ấy, 500 vị Tỳ khưu ấy thông suốt trọn vẹn 7 bộ Thắng Pháp
trước những vị Tỳ khưu kia.
Đức Thế Tôn thuyết trọn vẹn Tạng Thắng Pháp trên cõi Đao Lợi ròng rã ba
tháng dài (tính theo cõi nhân loại), đã mang đến Đạo Quả cho 80 koti Chư Thiên, và
Hoàng hậu Māyā chứng đạt được Pháp Nhãn Dự Lưu Quả.
Còn bảy ngày nữa là đến ngày Đại Lễ Tự Tứ, đại chúng rộng 36 do tuần ấy, khởi
lên sự suy nghĩ rằng:
- Từ hôm nay trở đi, đến ngày thứ bảy là ngày Đại Lễ Tự Tứ. Đức Thế Tôn sẽ
ngự về nơi nào?
Họ đi đến Trưởng Lão Moggallāna bạch rằng:
- Bạch Ngài! Chúng tôi muốn biết ngày trở về của Đức Thế Tôn, nếu chúng tôi
chưa được chiêm bái Ngài, chúng tôi sẽ không rời khỏi nơi đây đâu.
- Nầy đại chúng, thôi được.
Trưởng Lão Moggallāna chú nguyện rằng: “Đại chúng hãy trông thấy ta đi đến
cõi Đao Lợi, diện kiến với Đức Thế Tôn”.
Ngài độn thổ, đi đến chân núi Sineru, rồi theo triền núi đi dần lên, giống như sợi
chỉ vàng xỏ vào viên ngọc trai đỏ. Ngài đi lên đỉnh núi Sineru, đại chúng thấy rõ ràng
như đang thấy cảnh Ngài đi trên núi Sineru trước mặt, Trưởng Lão đi được 1 do tuần,
2 do tuần… Tôn Giả Moggallāna đi đến Thiên Cung Đao Lợi, đến tảng đá
Pandukambala, đảnh lễ dưới chân Ngài với sự cung kính cực điển, bạch với Đức Thế
Tôn rằng:
- Bạch Thế Tôn! Hội chúng muốn yết kiến Ngài, nếu chưa được chiêm bái Ngài,
họ sẽ không rời chỗ ấy. Bạch Thế Tôn! Xin Ngài mở lòng bi mẫn ngự về nhân giới.
- Nầy Moggallāna! Sư huynh ngươi là Tôn giả Sāriputta hiện nay đang ở nơi nào?
- Bạch Thế Tôn! Vị ấy đang trú tại thành Sankassa.
- Nầy Moggallāna! Kể từ hôm nay trở đi, đến ngày thứ bảy, Như Lai sẽ ngự về
nhân giới, tại chân thành Sankassa. Đại chúng muốn yết kiến Đấng Như Lai thì hãy
đến nơi ấy.
Từ Sāvatthī đến thành Sankassa chỉ cách nhau 30 do tuần, chẳng cần phải chuẩn
bị lương thực chi cho lắm. Ngươi hãy thông báo cho đại chúng biết như thế. Đại
chúng hãy thọ trì Trai giới rồi đến nghe pháp vậy.
- Lành thay! Bạch Thế Tôn.
Trưởng Lão Moggallāna trở lại nhân giới, tuyên ngôn lại lời dạy của Đức Thế
Tôn cho đại chúng biết. Vào ngày Đại Tự Tứ, Bậc Đạo Sư phán bảo Đức Thiên Chúa
rằng:
- Nầy Đại Vương! Như Lai sẽ ngự về nhân giới.
Thiên chúa liền hóa hiện ba thang trời, một thang ngọc Maṇi ở giữa, một thang
bạc và một thang vàng ở hai bên, chân thang đặt ở chân thành Sankassa, đầu thang ở
đỉnh núi Sineru. Thang vàng ở bên phải dành cho Chư Thiên, thang bạc bên trái dành
cho Phạm Thiên, Đấng Như lai ngự đi giữa thang ngọc Maṇi.
Từ đỉnh núi Sineru Đức Thế Tôn ngự đi giữa thang ngọc ấy. Ngài đưa mắt nhìn
lên trên, thấu suốt cõi Phạm Thiên như tụ hội lại thành một điểm, Ngài đưa mắt nhìn
xuống, thấu suốt cõi địa ngục A Tỳ như thu lại thành một điểm. Cả 10 muôn triệu thế
giới như thu thành một điểm trong Phật Lực của Ngài như vậy. Chư Thiên thấy được
nhân loại và Phạm Thiên, nhân loại thấy được Chư Thiên cùng Phạm Thiên dường
như đang đứng đối diện với nhau. Đức Thế Tôn phóng hào quang 6 màu tỏa đi khắp
muôn trùng vũ trụ. Cả 36 do tuần đại chúng ấy, thấy được oai lực tuyệt diệu hy hữu
của Đức Phật, đều khởi tâm ước muốn thành vị Chánh Đẳng Giác vị lai.
Bấy giờ, Phạm Thiên ngự đi nơi thang bạc cầm lọng cho cho Đức Thế Tôn, Đức
Đế Thích ngự đi nơi thang vàng ôm bát hầu Ngài. Càn Thát Bà Pancasikha cầm thiên
cầm Baluva màu vàng xinh đẹp, tấu lên những thiên khúc, ca hát cúng dường Bậc
Đạo Sư, Thiên Tử Mātalisangāhaka cầm vật thơm và tràng hoa tung lên hư không
cúng dường Đức Thiện Thệ, hoa thiên Mạn Đà của Chư Thiên cúng dường rơi như
mưa, Thiên Tử Suyāma cầm quạt Vālavījavī quạt hầu Đức Đạo Sư…
Đức Thế Tôn ngự về nhân giới, tại chân thành Sankassa. Trưởng Lão Sāriputta
đến đảnh lễ Đức Thế Tôn, tán thán tướng hảo quang minh của Đức Thế Tôn, vì đây
Phật Tướng hiển lộ thù diệu như thế nầy, Trưỡng Lão chưa từng trông thấy bao giờ
cả. Trưởng Lão thốt lên kệ hoan hỷ tán thán như vậy:
“Bậc Đạo Sư với Phật âm du dương, với lời tao nhã. Ngài là bậc Thầy của Chư
Thiên và nhân loại. Từ Cung trời Đấu Suất Ngài hạ sanh về nhân giới cũng không có
được quang cảnh thù thắng như thế nầy đây. Ta chưa từng thấy tướng hảo của một ai
chói sáng rực như Ngài, không ai so sánh được với Phật Thân”.
Rồi Tôn Giả Sāriputta bạch với Đức Thế Tôn rằng:
- Bạch Thế Tôn! Hôm nay cả nhân thiên đều hoan hỷ cung nghinh Ngài trở về
nhân giới.
Đức Đạo Sư phán dạy Tôn Giả Sāriputta rằng:
- Nầy Sāriputta! Một vị Phật đầy đủ ân đức tối thượng, thường là nơi kính mến
của Chư Thiên và nhân loại như thế.
Rồi nhân đó, Ngài thuyết lên kệ ngôn rằng:
“Ye jhānapasutā dhīrā, Nekkhammūpasame ratā; Devāpi tesaṃ pihayanti, Sambuddhānaṃ satīmataṃ”. | "Người trí chuyên thiền định, Thích an tịnh viễn ly, Chư thiên đều ái kính, Bậc chánh giác chánh niệm." |
Comments