21. “Appamādo amataṃ padaṃ, Pamādo maccuno padaṃ; Appamattā na mīyanti, Ye pamattā yathā matā”. | Không phóng dật, đường sống, Phóng dật là đường chết. Không phóng dật, không chết, Phóng dật như chết rồi. |
22. “Etaṃ visesato ñatvā, Appamādamhi paṇḍitā; Appamāde pamodanti, Ariyānaṃ gocare ratā”. | Biết rõ sai biệt ấy, Người trí không phóng dật, Hoan hỷ, không phóng dật, An vui hạnh bậc Thánh. |
23. “Te jhāyino sātatikā, Niccaṃ daḷhaparakkamā; Phusanti dhīrā nibbānaṃ, Yogakkhemaṃ anuttaranti”. | Người hằng tu thiền định, Thường kiên trì tinh tấn. Bậc trí hưởng Niết Bàn, Ách an tịnh vô thượng. |
Những kệ ngôn Pháp Cú (21-22-23) nầy được Đức Thế Tôn đã thuyết pháp khi
Ngài an ngự tại Ghositārāma (Lôi Âm Tự), gần thành Kosambi, đề cập đến cái chết
của Hoàng hậu Sāmāvatī cùng năm trăm phi tần của cô và cái chết của Thứ hậu
Māgandiyā luôn cả năm trăm cung nữ, quyến thuộc của nàng.
Đầu đuôi câu chuyện như sau:
Trong thời quá khứ, nơi quốc lộ Allakappa (An Lạc Kiếp), có Allakappa Quốc
vương và nơi quốc độ Veṭṭhadīpaka (Bệ Tha Đảo), có Veṭṭhadīpaka Quốc vương. Hai
nhà vua là đôi bạn thâm giao. Hai người kết nghĩa kim bằng từ thời thơ ấu, đã từng
sống chung, học tập nghề văn nghiệp võ với một ông thầy. Khi phụ vương của mỗi vị
băng hà, ai về nước nấy để nối ngôi thiên tử, thống lãnh giang sơn tiểu quốc
(Dasadasayojanika raṭṭha). Tuy nhiên, hai vị tân vương thỉnh thoảng vẫn còn tương
hội, cùng sánh vai nhau đi đứng, nằm ngồi.
Một hôm luận đàm thế sự, nhìn thấy dân gian lớp mới sanh, lớp đã già, đều đi
lần đến cõi chết, hai bạn tri kỷ đồng than: “Hỡi ơi! Huỳnh tiền di lộ, bất đắc tương
tùy, hơi thở dứt đi thì thân nầy cũng bỏ, cơ đồ sự nghiệp, quyến thuộc gia đình…
chung quy cũng là ảo mộng mà thôi. Vậy ta hãy xuất gia tu hành cho rảnh”.
Phán rồi, hai nhà vua cả quyết phú thác sơn hà xã tắc lại cho thê nhi, cùng nhau
xuất gia đạo sĩ vào ẩn cư trong miền Tuyết Lãnh (Himavanta).
Ở chung nơi đây, hai bạn đạo bảo nhau rằng: “Chúng ta bỏ vương quyền đế vị là
hy cần đắc đạo, nhập thánh siêu phàm, chẳng lẽ không tự túc cánh sinh, nếu ta còn lưu
luyến chung cư thì có khác nào lúc xưa ta còn ở thế? Thôi ta nên ở riêng mỗi người
một phía, bạn ở núi kia tôi ở núi nầy, mỗi kỳ nữa tháng, đến ngày Phát lồ (sám hối) ta
sẽ hội họp một lần nữa mà thôi”.
Hai đạo sĩ lại đồng ý thêm rằng: “Như thế ta cũng còn mong mỏi đến ngày tương
hội, tốt hơn hết là đến ngày ấy, bạn nổi lửa bên núi bạn, tôi nổi lửa bên núi tôi. Bằng
cách ấy, ta thông tin nhau biết là mình còn sống”.
Thế rồi, hai đạo sĩ chia tay, giữ đúng lời giao ước. Một thời gian sau, đạo sĩ
Veṭṭhadīpaka chết, thọ sanh làm một vị Thiên vương có nhiều thần lực.
Đến kỳ Phát lồ nữa tháng, không thấy khói lửa phía núi bên kia vị đạo sĩ còn
sống biết rằng: “Bạn ta đã mãn phần”.
Còn vị thiên, sau khi hóa sanh, ngẫm xem thân hình đổi mới, cao sang lộng lẫy,
bèn tìm hiểu duyên nghiệp đã làm cho được quả phước hiện tại, thì được biết rằng: Do
nhờ ta xuất gia tu hành. Rồi vị ấy tính thầm: “Ta hãy xuống thăm bạn ta coi nào?”.
Liền đó, xóa bỏ hình dáng chư thiên vị ấy biến thành một khách lữ hành, đến
đảnh lễ vị đạo sĩ và đứng qua một bên.
Thấy người lạ, đạo sĩ hỏi:
- Đạo hữu ở đâu lại đây?
- Bạch Ngài! Tôi là khách lữ hành ở tận một phương xa, bạch Ngài cho phép tôi
hỏi thăm: Nơi đây có ai khác nữa ở chung với Ngài không?
- Có, ta có một người bạn.
- Ngài ấy ở đâu?
- Vị ấy ở núi bên kia, hôm nay đến kỳ Phát lồ mà sao không thấy nổi lửa, có lẽ vị
ấy chết rồi chăng?
- Bạch Ngài, đúng vậy.
- Đạo hữu biết chắc ư?
- Bạch Ngài vị ấy chính là tôi đây.
- Đạo hữu sanh về cảnh giới nào?
- Tôi sanh lên cõi trời, làm vị Thiên vương có nhiều thần lực, nay vì muốn thăm
bạn cũ, nên trở xuống đây. Bạch Ngài! Nơi đây Ngài có gặp điều chi trở ngại, khó
khăn phiền phức không?
- Thưa đạo hữu, có. Tôi bị mấy con voi thường đến quấy phá.
- Bạch Ngài, chẳng hay mấy con voi ấy quấy nhiễu Ngài bằng cách nào?
- Đàn voi đến phóng uế trên sân, chỗ tôi đã quét sạch sẽ và dậm chân quần thảo
làm cho bụi bay lên tứ tung, tôi phải mất công hốt phân voi và đổ đất lấp các lỗ chân
voi.
- Chắc Ngài muốn đàn voi đừng trở lại nữa?
- Phải đó, đạo hữu.
- Vậy thì để tôi chỉ Ngài cách nầy làm cho bọn chúng sẽ từ biệt nơi đây.
Nói rồi, Thiên vương tặng cho đạo sĩ cây đàn thần ba dây và dạy cho đạo sĩ niệm
chú để sai khiến loài voi. Lần lượt chỉ vào ba dây đàn, Thiên vương giảng:
- Khi nào Ngài khảy dây đàn nầy và niệm chú nầy thì đàn voi chạy thẳng một
mạch, không thể quay đầu nhìn lại phía sau. Còn khi nào Ngài khảy dây đàn nầy và
niệm câu chú nầy, thì đàn voi “phản tiền vi hậu”, quay đầu lại vừa chạy vừa nhìn về
phía Ngài. Còn nếu Ngài khảy dây đàn nầy và niệm câu thần chú này thì con Tượng
chúa lập tức chạy đến đưa lưng cho Ngài cởi.
Đoạn Thiên vương đảnh lễ đạo sĩ và cáo từ lui gót.
Nhờ phép niệm chú và khảy đờn rất linh nghiệm, khiến cho đàn voi chạy lảng xa
hết, đạo sĩ từ đó mới được nhận sự nhàn lạc tịnh cư nơi miền sơn dã.
Đồng thời với đạo sĩ, có đức vua ngự, hiệu là Parantapa (Phổ Chiếu), đóng đô tại
thành Kosambi.
Một hôm nhân buổi chiều hè nóng bức, quốc vương cùng Chánh hậu đang hoài
thai ra khỏi hoàng cung, ngự tọa trên sân thượng lộ thiên của tòa biệt điện.
Hoàng hậu được đức vua khoác trên mình chiếc long bào triều phục bằng gấm
đỏ trị giá bằng mười vạn đồng vàng, trong khi ấu yếm chuyện trò, đức vua lại cởi
chiếc nhẫn ngọc ấn trị giá cũng mười vạn đồng vàng nơi tay Ngài mà lồng qua ngón
tay của Hoàng hậu.
Tình cờ khi ấy, trên không có con chim đại bàng (hatthiliṅgasakuṇa) từ xa bay
đến, trông thấy Hoàng hậu mặc chiếc hồng bào, nó tưởng là đống thịt đỏ tươi, nên xếp
đôi cánh lại lao mình xuống nhanh như cắt, phát ra tiếng gió ào ào nghe đến lạnh
mình. Đức vua kinh hãi đứng dậy, chạy ngay xuống lầu. Hoàng hậu cũng hốt hoảng
hoang mang, nhưng vì đang lúc hoài thai nên không thể lanh chân tẩu thoát kịp. Vì thế
đại bàng điểu xớt được Hoàng hậu, kẹp cứng trong móng vuốt của nó, rồi vỗ cánh bay
lên.
Theo lời xưa kể lại, giống đại bàng nầy là một giống kên kên (Thốc thứu) có mỏ
dài như vòi voi, có sức mạnh tha mồi bằng năm con tượng, cho nên khi sớt mồi rồi là
nó bay đi, tùy thích đáp xuống mà ăn thịt. Đang lúc bị chim đại bàng tha bay lên
không, Hoàng hậu phập phồng sợ chết, tự nghĩ thầm rằng: “Giống thú hay sợ tiếng
người, nếu ta kêu la, nó nghe tiếng ta, ắt là buông bỏ ta rơi xuống đất, như thế ta cùng
thai nhi cũng đều vong mạng. Chi bằng chờ khi nó đậu chỗ nào, sắp sửa ăn thịt ta,
chừng ấy ta sẽ cất tiếng la to để xua đuổi nó”.
Nhờ thông minh tinh trí, nghĩ ra diệu kế, Hoàng hậu nhẫn nại làm thinh.
Nơi miền Tuyết Sơn, có một cây đa rất to lớn, mọc lên đã lâu đời, thân cây sừng
sững giữa trời, tàn nhánh tròn xoe, sum suê mát mẻ, chim đại bàng vẫn thường sớt tha
thú rừng đem về gác trên cây đa cổ thụ mà ăn. Cho nên hôm ấy nó cũng tha Hoàng
hậu Parantapa về đậu trên cháng hai ấy và đưa mắt quan sát con đường về. Theo tục
truyền giống chim nầy có thói quen là luôn luôn quan sát con đường về như thế.
Ngay khi ấy, Hoàng hậu tính rằng: “Bây giờ là lúc ta phải xua đuổi nó đây”.
Duỗi hai cánh tay ra, Hoàng hậu vừa vỗ tay vừa la lớn tiếng, đuổi được con chim
đại bàng bay mất.
Chiều tàn, bóng ô vừa khuất, Hoàng hậu bỗng nghe thai nhi chuyển động. Bầu
trời lúc bấy giờ lại vần vũ mây đen, tứ bề chớp giăng sấm nổ.
Thảm thay cho một trang quốc mẫu, lá ngọc cành vàng.
“Rừng khuya tân khổ cơ hàn
Ai người bầu bạn trấn an cho mình”.
Đến khi đêm tàn mưa tạnh vừa hồng lố dạng trời đông, Hoàng hậu xổ lòng sanh
được một hoàng nam. Để kỷ niệm bầu trời quang đãng với mặt nhật đang lên, báo
hiệu một ngày tươi sáng. Hoàng hậu Parantapa đặt tên con là Udena (Cao Thắng).
Chỗ Hoàng hậu thọ nạn, cách chỗ ngụ của đạo sĩ Allakappa không bao xa.
Thói thường trong những ngày mưa, đạo sĩ sợ cảm hàn không dám vào rừng hái
trái cây, đạo sĩ chỉ đi đến dưới gốc cây đa cổ thụ, chờ đại bàng điểu ăn xong thì hốt
mót xương thừa, thịt vụn, đem về giã nát ra, cho thêm gia vị nấu thành nước canh mà
húp.
Sáng hôm ấy, đạo sĩ cũng tính thầm: “Ta đi lượm mót xương”, đến gốc cây đa,
đạo sĩ còn đang nhặt xương gom lại, bỗng nghe tiếng khóc của trẻ thơ ở phía trên cây.
Đạo sĩ ngước mắt nhìn lên, thấy Hoàng hậu ẵm con, bèn hỏi rằng:
- Nàng là giống chi?
- Thưa thiếp bị đại bàng điểu xớt tha về đây.
- Nàng muốn xuống đất không?
- Thưa muốn! Nhưng thiếp e giữa thiếp với người có chỗ cách biệt về dòng dõi
không?
- Nàng thuộc về giai cấp nào?
- Thưa thiếp thuộc dòng Sát Đế Lỵ (Khattiya).
- Bần đạo cũng dòng Sát Đế Lỵ.
- Thế thì xin Ngài hãy kể những kiến thức đặc biệt của dòng Sát Đế Lỵ thử coi.
Nghe đạo sĩ kể đúng rồi, Hoàng hậu hết nghi nan, bèn yêu cầu: “Xin Ngài trèo
lên ẵm ấu tử giùm cho tiện thiếp”.
Đạo sĩ lập cách mở một lối lên đến cháng cây đa, đoạn trèo lên để bồng ấu tử và
dặn rằng: “Nàng khá thủ lễ, chớ đụng tay vào mình bần đạo không nên”.
Hoàng hậu y lời, khi trao hài nhi qua cho đạo sĩ ẵm xuống giữ gìn không cho
đụng chạm, rồi Hoàng hậu cũng xuống theo luôn.
Đạo sĩ bồng ấu tử trở về tới thảo am, ra tay tế độ nuôi nấng nhưng dè dặt chẳng
cho đứt giới người tu, đạo sĩ vào rừng kiếm mật ong nguyên chất và nước trái thốt nốt,
đem về nấu cháo lỏng cho ấu tử bú.
Thấy đạo sĩ chăm non dưỡng dục con mình mà còn gìn giữ tư cách, Hoàng hậu
buồn thân tủi phận nói thầm rằng: “Như ta nay đường đi chẳng biết, nẻo về cũng
không hay, ở lại thì đạo sĩ đối với nữ nhân bơ phờ lạnh nhạt, không chút cảm tình.
Nếu rủi bị ông ấy bỏ rơi thì mẹ con ta biết sẽ lưu lạc về đâu? Chắc chắn cả hai đều
phải chết, ta phải làm sao cho đạo sĩ phá bỏ giới hạnh, chớ đừng bỏ rơi hai mẹ con ta”.
Nghĩ vậy, Hoàng hậu bắt đầu ăn vận rách rưới lang thang, dùng chất liễu bồ
nhược chất mà lung lạc tâm kẻ tu hành. Đạo sĩ rốt cuộc phải xiêu lòng. Từ đó nam nữ
sống chung thuận hòa hợp êm ấm.
Tháng ngày qua… Một hôm đạo sĩ nhìn xem thiên tượng, thấy khí số của vua
Parantapa đã hết, bèn kêu vợ bảo rằng:
- Nầy hiền nội, đức vua Parantapa trong thành Kosambi đã băng hà rồi.
- Sao phu quân nói vậy, đức vua với phu quân có thù nghịch chi chăng?
- Không đâu! Nầy hiền nội, ta nhìn xem thiên tượng thấy sao ứng ra điều ấy, nên
nói như thế.
Hoàng hậu sụt sùi đổ lệ.
Đạo sĩ hỏi:
- Sao nàng lại khóc.
Khi được biết vua Parantapa là chồng cũ của vợ mình, đạo sĩ an ủi: “Thôi hiền
nội đừng nên bị lụy, ở đời hễ có sanh là có tử, đó là lẽ đương nhiên”.
- Thưa phu quân, thiếp cũng biết như vậy.
- Thế sao nàng lại khóc?
- Vì con trai của thiếp là đông cung Thái tử, có quyền kế vị ngai vàng, đáng lẽ
hưởng được phú quý vinh hoa tột bực thế mà Thái tử bây giờ phải chịu làm kẻ thường
dân, cho nên thiếp tủi buồn cho thân con mà lưu lệ đó phu quân!
- Hiền nội cứ an tâm, đừng lo rầu nữa, nếu Thái tử muốn hồi trào để thừa hưởng
được phú quý vinh hoa tột bực thì ta có cách giúp cho Thái tử thành toàn ý nguyện
chẳng sai.
Hoàng hậu mừng rỡ đáp: “Thưa phu quân, nếu được vậy thì còn chi quý bằng”.
- Được rồi, hiền nội.
Tiếp theo lời hứa, đạo sĩ lấy cây đàn thần ba dây ra trao cho Thái tử và truyền
dạy ba câu mật chú điều khiển loài voi.
Hồi ấy vẫn có vô số tượng rừng ra vào gần đấy, tập trung quanh các gốc cây to
kể hơn trăm ngàn thớt. Đạo sĩ liền dặn Thái tử rằng: “Lúc đàn voi chưa đến, con phải
trèo lên ngồi trước trên cây cao. Hễ thấy chúng nó đến thì con niệm câu chú nầy và
khảy dây đàn nầy, tất nhiên cả đàn voi sẽ quay đầu lại chạy thẳng một mạch không
dám liếc nhìn lại phía sau. Chờ cả đàn voi qua hết, con hãy tuột xuống mà về”.
Thái tử vâng lời dưỡng phụ, một mình vào rừng thí nghiệm phép linh, xong rồi
trở về thảo am thuật lại chuyện.
Qua ngày thứ hai, đạo sĩ lại dạy thêm Thái tử:
“Bữa nay con niệm câu chú nầy và khảy sợi dây đàn nầy, đàn voi sẽ phản tiền vi
hậu vừa chạy vừa nhìn về phía con”.
Thái tử cũng vâng lời ra đi, thí nghiệm xong liền trở về phục lịnh dưỡng phụ.
Khi ấy, đạo sĩ gọi Hoàng hậu và bảo: “Nầy hiền nội, nàng có cần nhắn tin chi, thì
hãy nói với con đi! Thái tử trở về phen nầy ắt sẽ lên ngôi cửu ngũ”.
Hoàng hậu gọi Thái tử vào ngỏ lời tâm sự rằng: “Nầy vương nhi, con chính là
đông cung Thái tử, con vua Parantapa xứ Kosambi, lúc mẹ mang con trong lòng thì bị
đại bàng điểu xớt đi...”.
Thuật hết lai lịch tông tích của mình rồi, Hoàng hậu lại kể đích danh các đại thần
trong triều, nhất là tên quan Nguyên soái cho Thái tử biết và tiếp rằng: “Đến lúc cần,
con hãy trưng ra chiếc Hồng Cẩm bào và chiếc Vương chỉ hoàn nầy vốn là triều phục
và ngọc ấn của phụ vương con để làm tin”.
Dặn dò xong, Hoàng hậu tiễn biệt Thái tử. Thái tử quay lại hỏi đạo sĩ rằng:
- Thưa dưỡng phụ! Bây giờ con phải làm gì?
- Con hãy trèo lên cây, ngồi trên một nhánh thấp rồi con niệm câu chú nầy và
khảy sợi dây nầy, tức thì Tượng chúa đến đưa lưng cho con cưỡi, con tuột xuống ngồi
lên lưng Tượng trở về cố quốc kế vị ngai vàng của phụ vương con.
Thái tử sụp xuống bái biệt song thân, rồi theo lời dạy của dưỡng phụ, gọi con
Tượng chúa đến cỡi lên lưng nó và kê miệng gần tai nó, xuống lịnh phán rằng: “Ta là
Thái tử Udena, con vua Parantapa xứ Kosambi, xin Tượng chúa hãy đưa ta về triều
phục quốc, để kế vị ngai vàng!”.
Nghe vậy, Tượng chúa rống to lên, dùng ngôn ngữ của loài voi kêu gọi hợp đàn:
“Vô số ngàn thớt tượng hãy tập trung tất cả nơi đây”.
Quả nhiên, có vô số ngàn thớt tượng vâng lịnh chúa đàn quy tụ rất đông.
Với lực lượng hùng hậu vô số ngàn voi chiến Thái tử lên đường trở lại cố đô,
đến biên ải, Thái tử kêu gọi dân chúng: “Ta là đông cung Thái tử trở về trào phục
quốc, thần dân khá mau hộ giá mà lập công danh”.
Từ đó trở đi dân chúng gia nhập càng ngày càng đông, Thái tử kết tập cả đoàn
dân quân cùng với tượng binh kéo dốc toàn lực về vây thành Kosambi và phái sứ giả
vào triều trao tối hậu thư, kết thúc bằng hai điều vắn tắt: “Muốn chiến tranh hay là
quy hoàn vương vị cho ta”.
Trào thần đáp lại sứ giả rằng: “Cả hai câu hỏi của quý Ngài chúng tôi không thể
trả lời dứt khoát. Quả thật, Hoàng hậu hoài thai có bị đại bàng điểu xớt tha đi, nhưng
từ đó đến nay biệt tích vắng tăm, còn mất thế nào chưa rõ, bao giờ chúng tôi nghe
đích xác tin tức Hoàng hậu rồi, chúng tôi mới có thể biểu quyết chiến tranh hay hoàn
vương vị lại cho chúa của quý Ngài”.
Sứ giả về tâu lại với Thái tử những lời thương nghị của trào thần, Thái tử bèn
thân hành đến tận cổng thành, bắt loa phán rằng: “Ta là đông cung Thái tử Udena, con
của Hoàng hậu mất tích đây”. Rồi Thái tử gọi đích danh các quan đại thần, nhất là tên
vị Nguyên nhung. Thấy họ còn hoài nghi, Thái tử bèn trưng ra hai tín vật, bá quan
nhận thấy chiếc Hồng cẩm bào và chiếc ngọc ấn chỉ hoàng là tín hiệu của quốc vương
Parantapa, bèn mở rộng cửa ngọ môn nghinh tiếp Thái tử với ba quân tướng sĩ vào
thành và chọn ngày làm lễ đăng quang để tôn Thái tử lên ngôi cửu ngũ.
(Trên đây là sự tích đản sanh của Thái tử Udena).
Nơi quốc độ Allakappa, trong một năm mất mùa, nạn đói hoành hành rất khốc
liệt, có một anh chàng nọ tên là Kotuhaliko (Háo Kỳ) nghèo xác nghèo xơ, không
nuôi sống nỗi gia đình là một vợ, một con thơ chưa rời vú mẹ. Chàng bảo vợ: “Chúng
mình hãy đi Kosambi để tìm lối sống!”.
Nói rồi, anh ta góp nhóp được chút ít lương khô để dành ăn theo đường, dắt vợ
ẵm con bỏ nhà ra đi.
Anh Kotuhaliko chạy tị nạn đói, nhưng cũng có người cho rằng anh ta chạy tránh
bịnh thiên thời dịch khí, làm cho nhân dân chết lây liều yếu vậy.
Hai vợ chồng đi được một quãng đường thì vật thực hết sạch vừa đói vừa lả vì
kiệt sức và còn phải đèo theo đứa con thơ, Kotuhaliko chán nản, than thở với vợ rằng:
- Mình ơi! Chúng ta còn sống thì còn sanh con, ta hãy bỏ đứa nầy lại nơi đây mà
đi cho đỡ khổ nghe mình.
Động lòng từ mẫn, Kālī (Thị Thời) phản đối chồng rằng:
- Con còn sống, em không đành bỏ nó đâu?
- Vậy thì ta phải làm sao?
- Thì ta thay phiên nhau mà ẵm nó chứ sao?
Người mẹ lãnh phiên đầu, đeo đứa bé như một vòng hoa, đặt nó nằm yên trên
ngực mình, một lúc sau thiếu phụ trao con cho chồng. Kotuhaliko ẵm con đi, dừng lại
từng hồi từng chập chỗ nọ, chỗ kia. Mỗi khi bụng đói cồn cào, khổ đau quá sức. Thỉnh
thoảng anh ta nhắc đi nhắc lại với vợ rằng: “Mình ơi! Ta còn sống thì còn sanh con, ta
hãy bỏ đứa nầy đi cho rảnh”.
Kālī hễ nghe chồng mở miệng nói, là phản đối liền, nhất định không chịu lìa con.
Đứa bé được hai người thay phiên nhau ẵm bồng. Một lúc sau mòn mỏi ngủ thiếp trên
tay cha nó.
Kotuhaliko thấy con ngủ, bèn giục vợ đi trước, một mình ở lại sau, anh kiếm lá
lót trải dưới một bụi cây, se sẽ đặt con nằm xuống rồi bỏ đi.
Kālī quay lại kiếm chồng, không thấy con bèn hỏi:
- Con đâu, mình?
- Anh để nó nằm dưới bụi cây kia kìa.
Kālī đấm ngực khóc than kể lể: “Mình ơi! Mình làm khổ cho em, không có con
chắc em không sống được, mình đem con giao trả lại cho em”.
Kotuhaliko phải miễn cưỡng trở lại ẵm con theo, nhưng đến nữa đường đứa trẻ
cũng chết.
(Do nhân dứt bỏ con thơ nhiều chỗ trong kiếp ấy mà Kotuhaliko phải trả quả, bị
đem dứt bỏ bảy lần trong một kiếp sau. Thấy đó, ta không nên khinh thường những tội
lỗi nhỏ nhen mà cho rằng sẽ không trả quả).
Vợ chồng Kotuhaliko khi được rảnh tay lại tiếp tục lộ trình gian khổ và sau cùng
đi đến nông trại của một chủ nuôi bò.
Hôm ấy, nhằm ngày trong trại tổ chức lễ mừng cho con bò cái giống
(dhenumaṅgala) của chủ trại mới đẻ con so. Thường nhật có một Phật Độc Giác hằng
đến thọ thực trong trại chủ bò. Chủ trại để bát cúng dường Đức Phật Độc Giác trước,
rồi mới cử hành cuộc lễ, bữa ăn thịnh soạn cơm trắng chưng dọn ê hề.
Chủ trại nhìn thấy vợ chồng Kotuhaliko mới đến, bèn hỏi rằng: “Hai em ở đâu
lại đây?”.
Sau khi nghe tường thuật những nỗi đoạn trường của kẻ tị nạn đói, ông bèn khiến
gia đình đem đến cho họ khá nhiều cơm trắng với sanh tô (sappi).
Kālī nói: “Mình ơi! Hễ mình sống là em sống vậy mình hãy ráng ăn cho no nê đi
đặng bù lại khi trước mình đã chịu đói lâu ngày”
.
Nói rồi, người vợ đem gần hết phần cơm trắng, sanh tô của mình sớt qua bát của
chồng, chỉ chừa lại ăn chút ít thôi. Anh Kotuhaliko vì bị đói trong bảy ngày liền, bây
giờ gặp được mỹ vị cao lương, ăn nhiều bao nhiêu cũng chưa đã thèm.
Sau khi sai người bố thí cơm trắng cho hai nạn nhân, chủ trại bò ngồi vào bàn ăn
để dùng bữa.
Anh Kotuhaliko ngồi nhìn chủ trại, thấy ông ấy ném vắt cơm sữa xuống cho con
chó cái đang nằm dưới gầm bàn thì phát sanh ý nghĩ như vầy: “Con chó cái nầy quả
thật có phước mới được chủ cho ăn ngon lành như thế hằng ngày”.
Đêm ấy, anh Kotuhaliko bị trúng thực, phát ách, đau bụng mà chết, tâm thức
nhập vào thai bào của con chó cái nói trên.
Kālī lo an táng chồng rồi, còn nán ở lại làm công việc trong nhà chủ trại bò.
Lãnh được một gáo gạo, chị bèn nấu cơm để bát cúng dường Đức Phật Độc Giác và
phát nguyện rằng: “Xin cho phước nầy thấu đến chồng con”, nguyện rồi chị tự nghĩ:
“Ta nên ở lại đây phục dịch vì Ngài Đại đức mỗi ngày đều đến đây thọ bát. Dầu ta có
cúng dường hay không, mỗi ngày ta cũng được dịp lễ bái phục dịch Ngài. Như vậy,
chắc chắn ta sẽ tạo được nhiều phước báu cho đời vị lai”. Thế là từ đó chị Kālī ở luôn
làm công cho chủ trại.
Độ vài tháng sau, con chó cái đẻ, trong bầy con, nó chỉ có một con đực, chủ trại
bò cưng con chó con nầy lắm, nên lấy sữa của một con bò cái cho nó bú, không bao
lâu nó lớn, mỗi ngày trong khi thọ thực, Đức Phật Độc Giác đều cho nó một vắt cơm,
vì được cho ăn quen lệ, con chó nầy cảm mến Đức Phật Độc Giác.
Thường thường chủ trại bò đến hộ Đức Phật Độc Giác ngày hai lần. Đi đường
đến chỗ có thú dữ , ông ta lấy gậy đập lên bụi cây, hay đập xuống đất, miệng la: “Hiu,
hiu, hiu” ba tiếng làm cho thú dữ hoảng sợ bỏ chạy, mỗi lần ông đi, con chó chạy theo
ông.
Một hôm, chủ trại bò ngỏ lời yêu cần Đức Phật Độc Giác rằng:
- Bạch Ngài! Khi nào con không được rảnh thì con sẽ cho con chó nầy đến thỉnh
Ngài, xin Ngài hoan hỷ chấp nhận lời yêu cầu của con.
Từ đó về sau, mỗi khi bận việc, chủ trại bò sai con chó:
- Nầy con, con hãy đi thỉnh Ngài Đại đức.
Chỉ nghe chủ nói qua một lần là con chó lập tức đi. Tới chỗ mà chủ nó hay đập
gậy lên bụi cây hay đập xuống đất, nó đứng lại sủa ba tiếng, khi chắc ý là thú dữ nghe
tiếng nó sủa bỏ chạy xa rồi, nó mới sửa bộ tịch cho chỉnh tề, đi đến thảo am, chỗ Đức
Phật Độc Giác đang ngự, thấy Ngài ngồi trong am nó đứng ngay trước cửa sủa ba
tiếng ra hiệu cho biết là có nó đến, đoạn nó vào nằm bên Ngài. Đoán biết Đức Phật
Độc Giác sắp ra đi, nó vừa sủa vừa chạy trước dẫn đường.
Để thử trí khôn của con chó, Đức Phật Độc Giác thường rẽ qua lối này lối nọ,
thấy vậy, nó chạy vọt tới trước, đứng cản đường và sủa lên để kêu Ngài trở lại con
đường kia, một hôm Đức Phật Độc Giác cũng rẽ qua lối khác như thường lệ, con chó
cũng chạy tới trước đón đường, nó ráng sức sủa, nhưng Ngài không đổi hướng, lại
nắm chân nó vẹt qua để đi tới, khi thấy Ngài đi luôn, con chó chạy theo níu chéo y của
Ngài lôi ngược lại, để chỉ cho Ngài biết con đường nên đi. Sự gần gũi thân mật như
thế khiến cho mối tình quyến luyến của con chó đối với Đức Phật Độc Giác càng ngày
càng gia tăng.
Một thời gian sau, khi thấy y của Đức Phật Độc Giác cũ quá, ông chủ trại bò xin
dâng Ngài vải may y. Khi ấy, Đức Phật Độc Giác bảo rằng: “Nầy đạo hữu, việc cắt
may y rất khó mà làm một mình, vậy để ta đem vải đến chỗ có người tiếp tay phụ may
cho dễ”.
- Bạch Ngài, xin thỉnh Ngài hoan hỷ ở đây may y.
- Không thể được đâu đạo hữu!
- Bạch Ngài, nếu vậy xin Ngài đừng đi ở đó quá lâu.
Khi chủ trại bò hầu chuyện cùng Đức Phật Độc Giác con chó ở một bên để ý
lắng nghe.
Đức Phật từ giã thí chủ rồi, liền bay bổng lên hư không đoạn Ngài trực chỉ bay
luôn về núi Gandhamādana (Hương Đản).
Thấy Đức Phật Độc Giác bay đi, con chó đứng dưới đất nhìn theo mà sủa mãi,
cho đến khi hình bóng của Ngài mờ dần và tan biến trong hư không thì tim nó vỡ tan
ra. Ôi, súc vật cũng có nhiều con trung nghĩa trung thành, trái với tiếng lòng muôn dạ
thú, còn loài người cũng lắm kẻ mật miệng gươm lòng, hiệp với câu: “Giáp mặt lời ra,
lòng xa ngàn núi (đối diện dữ, nhữ tâm cách thiên san).
Do nhờ tánh trung nghĩa chân thật, sau khi chết, con chó được thọ sanh lên cung
trời Đao Lợi, có một ngàn ngọc nữ theo hầu hưởng được phước lộc của một Thiên
vương, đức vua trời này có giọng nói rất to. Dầu khi kề tai nói nhỏ, tiếng Ngài cũng
vang rền xa mười sáu do tuần. Do đó, Thiên vương được mệnh danh là Lôi Âm thiên
tử (Ghositadevaputta).
Nhờ gieo nhân nào mà Ngài được phước ấy, nhờ trong kiếp chó Ngài đã sủa Đức
Phật Độc Giác bằng cả tấm lòng trìu mến vậy.
Lôi Âm thiên tử không được trường thọ để hưởng lộc trời. (Trên Thiên giới, chư
thiên mạng chung vì hết tuổi thọ, hoặc vì hết phước, vì quên thọ thực hay vì quá sân
hận). Vị nào do tạo nhiều phước nghiệp, thọ sanh lên cõi trời nào, sống mãi tùy theo
số tuổi thọ của chư thiên cõi ấy, chết rồi sanh đi sanh lại cũng chưa hết phước, như
vậy gọi là mạng chung vì hết tuổi thọ. Vị nào tạo chút ít phước thọ sanh lên cõi trời
nào, khi hưởng hết phước để dành thì phải chết ví như người gởi vào công khố độ
bốn, năm lon lúa, lấy ra hết rồi thôi, như thế mạng chung vì hết phước. Còn vị nào
đang mê say thọ hưởng ngũ trần, mãi ham vui mà quên lãng việc thọ thực vị ấy cũng
phải chết vì xác thân không được dinh dưỡng, như thế gọi là mạng chung vì quên thọ
thực. Và vị nào thấy vị khác có nhiều oai lực phước báu hơn mình mà phát sanh lòng
ganh tị, hễ cơn giận nổi lên thì cũng chết, như vậy gọi là mạng chung vì sân hận.
Ghositadevaputta mãi vui say với ngũ trần dục lạc mà quên thọ thực nên phải
mạng chung, đầu thai vào lòng một cô gái lầu xanh ở trong thành Kosambi. Vừa sanh
con, cô kỹ nữ (sobhinī) đã hỏi đứa tỳ nữ: “Trai hay gái?”.
- Dạ thưa cô, trai!
Không cần thấy mặt anh nhi, sản phụ vội bảo:
- Vậy mầy hãy bỏ thằng nầy vào một cái giỏ xách bằng mây, rồi đem liệng nó ra
trên đống rác.
Đứa nữ tỳ vâng lịnh chủ, đem vứt đứa bé vô thừa nhận. (Các cô ả làng chơi ở đô
thành chỉ nuôi ròng coi gái, chớ không dùng con trai vì con gái mới nối được nghiệp
nhà).
Nằm trơ trên đống rác, hòn máu bỏ rơi bị chó và quạ xúm lại bao vây, nhưng
chẳng con nào dám xáp lại gần do nhờ phước báu đã sủa Đức Phật Độc Giác với tâm
trìu mến trong kiếp làm chó của nó.
Thời may, trong giây phút ấy có người đàn ông đi ra đồng, thấy quạ và chó chùm
chum một chỗ, nên để ý tự hỏi:
- Đằng đó có cái gì vậy?
Rảo bước đến nơi, người đàn ông thấy đứa hài nhi thì sanh lòng thương như con
đẻ, bèn bế xốc nó lên và tri hô rằng:
- Ta xí được đứa con trai, đoạn người ấy bồng nó đem về nhà.
Ngày sanh đứa trẻ không cha là ngày ông Thiên hộ thành Kosambi vào triều bái
kiến đức vua. Lúc vào hoàng thành ông gặp quan Khâm thiên giám từ trong cung nội
đi ra, bèn nghiêng mình thi lễ và hỏi rằng:
- Kính thưa Quốc sư, chẳng hay Ngài đã xem thiên văn để tiên đoán quốc sự
ngày bữa nay hay chưa?
- Thưa phú Trưởng giả, đó là bổn phận hằng ngày của bổn chức.
- Vậy thưa Ngài, trong nước có chuyện chi lạ xảy ra không?
- Chẳng có chi khác, ngoài việc đứa bé sanh ra trong đô thành ngày hôm nay, sau
nầy sẽ là đệ nhất phú Trưởng giả.
Lúc ấy bà Thiên hộ cũng có thai gần ngày sanh, cho nên ông Thiên hộ hối hả sai
tên gia đinh theo hầu:
- Nầy con! Con về xem coi bà đã lâm bồn chưa nghe!
Tùng giả vâng lời chạy ngay về nhà, hỏi: “Bà Thiên Hộ đã lâm bồn chưa?”.
Nghe người nhà đáp: “Bà chưa sanh”, tùng giả bèn chạy trở vô thành, lập y lại
với chủ “Bà chưa sanh”.
Khi hay tin vợ chưa sanh, phú ông vào triều thỉnh an đức vua xong vội vã trở về
nhà, cho đòi con tỷ tất Kālī (Hắc Nô) đến, giao cho nó một ngàn đồng vàng và dặn
bảo: “Con hãy đi rảo khắp trong thành dò xét, nếu gặp đứa bé nào mới sanh ra nội
ngày bữa nay thì con xuất hết một ngàn đồng vàng mua nó đem về cho ông”.
Nàng kālī (Hắc Nô) đi hỏi thăm lần hồi, nhờ người điềm chỉ đến ngay nhà người
đàn ông xí được đứa bé, liền hỏi vợ chủ nhà:
- Thằng nhỏ này thím sanh được bao lâu rồi?
- Dạ mới sanh bữa nay.
- Cho tôi xin nó đi.
Rồi cô kỳ kèo trả giá, từ một đồng lên tới một ngàn đồng vàng mới mua được
đứa con rơi đem về cho ông Thiên hộ.
Phú ông bề ngoài làm ra vẻ yêu mến đứa con nuôi, cho cất nhà riêng để nó ở,
nhưng trong thâm tâm ông dự tính rằng: “Nếu vợ ta sanh con gái thì ta sẽ gả cho thằng
nầy và truyền chức Thiên hộ cho rể, nhược bằng vợ ta sanh con trai thì ta sẽ thủ tiêu
nó ngay”.
Cách vài ngày sau, phú bà xổ lòng, sanh được một trai. Phú ông nghĩ rằng: “Bây
giờ ta phải tìm cách hạ sát đứa con hoang thì đứa con ruột của ta sẽ giữ chức đệ nhất
phú gia trong thành Kosambi nầy”.
Ông Thiên hộ gọi con tỷ tất Kālī và dặn riêng nó rằng: “Con đem thằng bé ngoại
tộc nầy đến cửa chuồng bò, chờ khi người ta sắp thả bò ra, thì con bỏ nó nằm ngay
giữa lối đi, cho bò cái dặm nhẹp xác nó! Con chờ coi, thấy nó bị đạp chết rồi, hãy về
cho ông biết tin”.
Nữ tỳ Kālī ẵm đứa bé đi, chờ một lúc thấy mục đồng mở cửa chuồng bò, bèn đặt
nó nằm ngang cửa lối đi của bò. Mọi bữa khác thì con bò đực đầu đàn đi ra sau chót
hết, nhưng hôm nay nó lại ra trước nhất, đến ngay chỗ đứa bé nằm nó đứng dang bốn
chân ra, che chở tứ phía.
Bầy bò cái không biết mấy trăm con, chạy túa ra làm hai hàng, chạm vào hai bên
hông con bò mộng, người chăn bò thấy chuyện lạ, nói thầm rằng: “Con bò mộng nầy
lúc nào cũng đi ra sau cùng, sao hôm nay lại phát chứng chạy ra trước nhất, đứng chận
ngay cửa chuồng vậy cà? Không biết có cái gì ở đó?”.
Khi đến gần, trông thấy đứa bé tí hon đang nằm dưới con bò mộng, người chăn
bò sanh lòng thương như con ruột của mình, bèn hô hớn lên: “Ta xí được đứa con
trai” rồi ẵm luôn nó vô nhà.
Kālī về phục dịch chủ, đem hết mọi sự trình lại cho ông Thiên hộ nghe. Phú ông
lại giao cho nó một ngàn đồng vàng và dặn: “Bây giờ con đem số tiền nầy đi, ráng
chuộc thằng bé về cho ông”.
Tỷ tất Kālī thực hành lịnh chủ, xuất hết một ngàn đồng vàng chuộc được đứa bé
mang về cho ông Thiên hộ. Khi ấy, phú ông lại nhỏ to sở cậy đứa tớ gái tâm phúc
rằng: “Nầy Kālī con, hôm nay trong đô thành có năm trăm cỗ xe bò sắp khởi hành
một chuyến buôn xa, sẽ đi tờ mờ sáng vậy con hãy mang thằng bé nầy đem bỏ giữa
đường lộ cho bò đạp, cho xe cán nó nát thây, đứt đầu chết đi cho rảnh, con chờ xem
thấy nó chết thật rồi, hãy về cho ông hay”.
Con nữ tỳ lại mang đứa bé đi bỏ nằm ngang giữa lộ. Lúc khởi hành vị đoàn
trưởng cho xe mình đi trước dẫn đường, đến chỗ đứa bé nằm, cặp bò đứng khựng lại,
bị chủ la hét thúc giục, chúng lại lộn nài bẻ ống không chịu đi tới nữa. Vì cặp bò
hướng đạo sanh chứng, tháo trút như vậy, nên cả đoàn xe phải dừng lại. Vị đoàn
trưởng đang mãi đứng loay hoay gác ách lên cổ bò thì trời rựng sáng.
Khi ấy ông trưởng đoàn lái buôn nhìn xuống đường để xem coi: “Tại sao mấy
con bò sanh chứng kì vậy?”, khi trông thấy đứa hài nhi ông mừng thầm: “Hay lắm,
công việc nầy thật phù hợp với vợ ta”, rồi ông bồng đứa bé lên và đem nó về nhà.
Thấy Kālī về, ông Thiên hộ lật đật hỏi thăm, khi nghe đứa tớ gái tường thuật hết
sự tình, ông lại sai nó đi:
- Thôi con ráng đi một lần nữa, đem một ngàn đồng vàng nầy chuộc nó đem về
đây.
Con nữ tỳ làm theo lời chủ dặn.
Ông Thiên hộ lại bảo nó: “Bây giờ con đem thằng nhỏ bỏ vào bãi tha ma, để cho
cầm thú, nhất là chó mèo nhai xương nó, cho phi nhân, ngạ quỷ đánh đập nó chết đi,
chừng con thấy nó thật chết rồi thì về cho ông biết tin”.
Kālī lại mang đứa hài nhi ra đi, quạ hay là các giống phi nhân đều không dám
xáp lại gần kề bên nó, nó chỉ có một mình trơ trọi, chẳng có cha, có mẹ, có anh chị
nào khác bảo bọc, che chở cho nó hết cả. Vậy thì ai hộ trì nó? Đó là nhờ phước nó đã
tạo trong kiếp chó, bằng cách sủa kêu Đức Độc Giác Phật với tâm trìu mến, hộ trì cho
nó vậy.
Khi ấy có một người chăn dê, đuổi hằng trăm ngàn con dê ra đồng cỏ cho ăn, đi
xuyên qua bãi tha ma, một con dê cái đi kiếm lá cây ăn, nên tách ra đi riêng, chui vào
một bụi rậm, thấy đứa bé nó dừng lại, quỳ hai gối đưa vú cho đứa bé bú, nghe người
chăn giả tiếng kêu “be be”, nó cũng không chạy ra, người nầy định bụng ta sẽ đập cho
nó mấy gậy.
Khi chui vào chỗ lùm cây bụi rậm, thấy con dê cái đang đứng chàng hảng cho
đứa bé nút sửa của nó, người chăn dê cảm thấy thương đứa bé ấy như con mình, bèn
tri hô lên rồi ẵm nó đem đi.
Con Kālī mục kích được chuyện nầy, trở về phúc trình tường tận cho ông phú hộ
biết, ông ta lại sai nó mang một ngàn đồng tiền vàng chuộc đứa bé mang về và nó lại
thi hành mệnh lệnh của chủ.
Khi ấy, ông Thiên hộ lại dặn dò cô tớ gái thân tín: “Nầy Kālī con! Phen nầy con
ráng đem thằng nầy trèo lên núi, tới chỗ vực thẳm mà người ta sẽ xô bọn cướp xuống
hành hình (Corappabbata), con vứt nó xuống hố sâu cho nó va chạm vào vách đá đập
nát thây nhi, chừng con thấy nó rớt xuống đất thật chết rồi thì con về cho ông hay”.
Con nữ tỳ đai đứa bé, trèo lên chót núi rồi quăng nó xuống.
Ngay chỗ ấy, từ sườn núi phía dưới có một lùm tre lớn theo khe đá nứt mọc lên,
trên đầu ngọn tre một đám cam thảo rừng (jiñjuka) bao phủ rậm rạp, đứa bé rơi nhằm
trong đó như là nằm trên tấm thảm to vậy.
Ngày ấy, ông thợ cả trong nhóm người đan thúng rổ cần dùng tre, ông ta xách
rựa đi với đứa con trai lên núi, đến chỗ lùm tre dọn gai ốc để đốn, bị động đứa trẻ
khóc ré lên. Nghe tiếng con nít khóc dậy, ông đốn tre nói: “Tiếng gì y như tiếng con
nít khóc vậy?”. Đoạn ông ta tìm lối trèo lên đầu ngọn tre, thấy đứa hài nhi ông mừng
rỡ tri hô lên: “Ta xí được đứa con trai”. Rồi ông bồng nó đem đi.
Con Kālī trở về gặp ông Thiên hộ, ông hỏi thì nó thấy sao nói vậy, tình thật khai
ngay, phú ông lại đưa ra một ngàn đồng vàng, biểu nó di chuộc đứa bé đem về cho
ông và nó cứ y lời, không dám cãi lịnh chủ.
Mặc dù bị dưỡng phụ là ông Thiên hộ lập phương nầy thế nọ để sát hại như thế,
đứa con trai mồ côi cũng chẳng hề hấn gì, nó lớn dần lên và được mọi người gọi là
Ghosaka (Lôi Âm công tử) vì tiếng nói của nó vang rền như sấm, nó như là cái gai
nhọn châm vào mắt Trưởng giả, ông ta thù ghét nó đến nỗi ông ta không muốn trông
thấy mặt nó, bị những ý tưởng đen tối ám ảnh, ông Thiên hộ lại cố tìm cho ra mưu kế
để giết nó cho khuất mắt mình, ông ta bèn đến chỗ ngụ của người làm nghề lò gốm và
nói:
- Chừng nào bạn đốt lò?
- Ngày mai.
Nghe vậy, ông Thiên hộ nói: “Thế thì bạn cứ cầm lấy một ngàn đồng tiền vàng
nầy mà xài, rồi tiếp theo làm việc nầy giúp tôi nhé!”.
- Việc chi vậy?
- Tôi có một thằng con nuôi, tôi sẽ sai nó đến đây bạn hãy dắt nó vào phòng kín,
lấy dao bén phân thây nó ra từng mảnh, ném vào lò hầm. Đây một ngàn đồng vàng
nầy tôi biếu trước cho bạn, khi nào xong việc tôi còn nhiều quà tặng thù lao cho bạn
nữa.
Chủ lò gốm nhận lời đáp: “Dạ thưa, được rồi”. Hôm sau, ông Thiên hộ cho đòi
Ghosaka (Lôi Âm) đến, bảo rằng:
- Con à! Hôm qua cha có đặt cho ông chủ lò gốm làm một công việc, giờ con
hãy đến nhắc ông ta như vầy: “Hôm qua cha tôi có đặt cho chú làm chuyện chi đó, thì
chú cứ làm đi”.
Công tử Ghosaka: “Dạ vâng”, rồi ra đi.
Khi ấy, con ruột của ông Thiên hộ đang chơi bắn cu li (Golakīḷā) với bọn trẻ,
thấy Ghosaka ra đi, kêu lại hỏi: “Anh Ghosaka, anh đi đâu đó?”.
- Cha sai anh đi đến nhà người chủ lò gốm có việc.
- Để em đi thế cho, mấy đứa nầy ăn của em nhiều đạn quá, anh hãy ở đây chơi,
gỡ lại giùm em.
- Anh sợ cha rầy lắm.
- Anh đừng sợ, để em đi đưa tin thế cho anh, em bị thua nhiều lắm, anh ráng gỡ
lại giùm em, trước khi em trở về nhà.
Công tử Ghosaka có tiếng là chơi bắn đạn rất giỏi nên con Trưởng giả mới theo
nài nỉ như vậy.
Sau cùng công tử chiều theo ý em và bảo: “Ừ thôi, thì em đến nhắc với chủ lò
gốm rằng: Nghe nói hôm qua cha tôi có đặt cho chú làm công việc chi đó vậy bây giờ
chú cứ làm đi”.
Cậu con ruột của ông Thiên hộ đến tìm gặp ông chủ lò gốm và nói y theo lời
Ghosaka đã dặn. Cậu ta không dè ông chủ lò gốm đã nhận tiền của cha cậu, nên y theo
mật ước, giết chết và phân thây cậu và ném vào lò hầm.
Công tử Ghosaka ở chơi bắn đạn, mãi đến chiều tối mới trở về nhà. Ông Thiên
hộ thấy cậu liền hỏi: “Ủa sao con chưa đi mà còn ở đây?”.
Công tử Ghosaka bèn cho dưỡng phụ biết lí do: Cậu không đi là vì em cậu đã
giành đi thế cho cậu.
Nghe vừa dứt lời, ông Thiên hộ tưởng như máu nóng sôi trào trong khắp người
ông, ông kêu thét lên hai tiếng: “Đừng giết,” rồi ông oằn oại chắp tay, lảo đảo đi đến
lò gốm vừa đi vừa than khóc: “Chú lò gốm ơi! Chú đừng có giết hại tôi hi hi, chú
đừng có giết hại tôi hi hi…”.
Chủ lò gốm thấy ông Thiên hộ đi đến vội vã chạy ra đón rước và cho biết rằng:
“Thưa ông chủ, xin ông đừng to tiếng việc ấy tôi đã thi hành rồi”.
Ông Thiên hộ bị mối sầu tựa như mối đè nặng tâm tư, nhưng ông chỉ còn nước
ngậm hờn, nuốt tủi, thầm ôm mối hận ngàn đời.
Đó là tội báo của kẻ nhiễm ô, manh tâm muốn hãm hại người trong sạch, đề cập
đến việc nầy, Đức Thế Tôn có thuyết bài kệ Pháp Cú được ghi trong phẩm Đao
Trượng (Hình phạt).
“Yo daṇḍena adaṇḍesu,
Appaduṭṭhesu dussati;
Dasannaṃ aññataraṃ ṭhānaṃ,
Khippameva nigacchati”.
“Vedanaṃ pharusaṃ jāniṃ,
Sarīrassa ca bhadanaṃ;
Garukaṃ vāpi ābādhaṃ,
Cittakkhepaṃ va pāpuṇe”.
“Rājato vā upassaggaṃ;
Abbhakkhānaṃ va dāruṇaṃ;
Parikkhayaṃ va ñātīnaṃ,
Bhogānaṃ va pabhaṅguṇaṃ”.
“Atha v’āssa agārāni,
Aggi ḍahati pāvako;
Kāyassa bhedā duppañño;
Nirayaṃ so’papajjati”.
“Cầm đao trượng đối tay không,
Ác nhân muốn hại người trong sạch thì,
Quả kia sẽ trả cấp kỳ,
Trong mười điều khổ, thọ y một điều:
Tâm thần đau đớn trăm chiều,
Hoặc thân ngộ nạn nát tiêu, rã rời,
Hoặc lâm bịnh nặng khổ đời,
Hoặc cuồng tâm, hóa ra người khùng điên,
Hoặc vua hình phạt, cùm xiềng,
Hoặc người vu cáo oan khiên tội tình,
Hoặc ly tán cả gia đình,
Hoặc là tài sản tan tành hư hao,
Hoặc là cửa rộng nhà cao,
Lửa hồng một ngọn cháy ào tan hoang.
Rã thây rồi, kẻ ngu ngoan,
Còn sa địa ngục chịu toàn khổ đau”
Tuy đau khổ vì con chết do lòng hiểm độc của mình, phú Trưởng giả vẫn chưa
tỉnh ngộ hối quá, mà lại càng ghét cay ghét đắng công tử Ghosaka, muốn thủ tiêu
ngay cậu cho khỏi xốn mắt, mỗi khi nhìn thấy cậu, ông lại moi óc tìm ra được một kế
khác “Ta sẽ sai thằng nầy đi đến mượn tay cậu quản lý ở Gāmasata (Ba Thôn) của ta
giết nó”.
Ông liền thảo một bức thư, đại khái nói rằng: “Thằng nầy là con nuôi của ta, nhờ
cậu giết nó chết và trừ cho mất xác, rồi ta sẽ đền công ơn xứng đáng”.
Trao phong thư cho công tử Ghosaka, phú ông hạ thấp giọng bảo rằng: “Nầy
Ghosaka con! Cha có một viên quản lý ở Gāmasata, con mau mang thơ nầy đến trao
tận tay ông ấy”.
Dặn dò xong, phú ông buộc bức thư cẩm nang vào vạt áo của cậu Ghosaka.
Chàng công tử nầy đã đến tuổi thiếu niên mà còn dốt chữ vì thất học. Từ bé đến giờ,
chàng bị người dưỡng phụ ác tâm cứ mãi tìm cách giết chàng cho khuất mắt, nhưng
chẳng thành công, có đâu mà chăm lo đến sự học vấn của chàng.
Vì thế, chàng ta vẫn vô tình để cho dưỡng phụ buộc cẩm nang, trong đó dựng
bản án của chàng vào vạt áo. Lúc ra đi chàng chỉ hỏi: “Thưa cha, con chưa có vật thực
chỉ để ăn theo đường”.
- Con khỏi cần đem theo vật thực cho mất công. Con đi giữa đường thì đến làng
mổ, nơi đó có ông Trưởng giả là bạn của cha, con ghé nhà ông ấy dùng cơm rồi hãy đi
nữa.
- Dạ thưa vâng!
Công tử Ghosaka cúi lạy từ giã dưỡng phụ, đi đến làng mổ hỏi thăm nhà ông
Trưởng giả, rồi đến gọi cổng thì gặp bà Trưởng giả.
- Cháu ở đâu lại đây? – Phú bà hỏi.
- Dạ thưa bác! Cháu ở thành nội. – Thiếu niên đáp
- Cháu là con ai?
- Dạ thưa bác cháu là con ông Thiên hộ.
- Phải cháu tên là Ghosaka không?
- Dạ thưa bác phải.
Bà Trưởng giả thấy mặt Ghosaka và nghe tiếng chàng đối đáp tự nhiên sanh lòng
mến thương chàng như con đẻ.
Ông bà Trưởng giả chỉ có một nàng tiểu thư tuổi vừa mới cặp kê, nhan sắc mỹ
miều, khả ái. Ông bà cắt riêng một đứa nữ tỳ để theo săn sóc và phục dịch cho tiểu
thư. Tiểu thư ở trên từng lầu thứ bảy, tối ngày chẳng hề bước chân ra khỏi căn phòng.
Bà Trưởng giả thấy con hầu của tiểu thư xuống lầu bèn kêu hỏi nó: “A hoàn ạ!
Mầy đi đâu vậy?”.
- Bẩm bà! Tiểu thư sai con đi chợ.
Bà Trưởng giả bảo: “Thôi mầy khoan đi chợ đã! Lại đây lo sửa soạn ghế cho
công tử ngồi, trải chiếu mời công tử nằm nghỉ đâu đó xong xuôi đàng hoàng, rồi hãy
đi chợ nghe”.
Con a hoàn vâng lịnh bà Trưởng giả, lo xong công việc rồi mới đi chợ. Khi nó
về, tiểu thư thấy nó đi lâu nên trách mắng, hăm he, nó bèn phân trần: “Thưa tiểu thư,
xin tiểu thư đừng giận, mắc bị có công tử Ghosaka là trưởng nam của ông Thiên hộ
mới đến, bà biểu phải làm công kia việc nọ cho công tử trước rồi hãy đi chợ sau, nên
em về trễ”.
Vừa nghe đến tên công tử Ghosaka, tiểu thư bỗng nhiên sửng sốt ngẩn ngơ: Tình
yêu công tử bộc phát như xuyên qua khỏi làn da, chạm đến tận xương tủy của nàng xử
nữ.
- Trong tiền kiếp công tử Ghosaka chính là chàng Kotuhaliko còn tiểu thơ là
nàng Kālī vợ của chàng, nàng nhờ để bát một bát cơm cúng dường Đức Phật Độc
Giác, nên kiếp nầy được sanh vào nhà đại phú, tình yêu chồng từ kiếp trước như lửa
bừng cháy lại, khiến cho nàng xúc động tâm tư. Bởi thế nên Đức Thế Tôn mới thuyết
kệ rằng:
“Pubbevasannivāsena,
Paccuppannahitena vā;
Evantaṃ jāyate pemaṃ,
Uppalaṃ va yathodaketi”.
“Xưa từng chung chạ ra vào,
Giờ nay tái ngộ, lòng nào chẳng lay.
Men tình vừa nhắp đã say,
Bèo xanh gặp nước ngày ngày gia tăng”.
Khi ấy, tiểu thư hỏi con a hoàn: “Công tử hiện nay ở đâu vậy em?”.
- Thưa cô! Công tử đang nằm ngủ trên giường.
- Công tử có cầm vật chi trên tay không?
- Thưa tiểu thư, ở vạt áo công tử có buộc một bức cẩm nang.
Tiểu thư nghĩ thầm: “Đó là thư từ chi vậy?”.
Trong khi công tử Ghosaka còn đang say giấc nồng, tiểu thư không cho cha mẹ
hay biết, rón rén lén xuống thơ phòng, mở lấy cẩm nang buộc nơi vạt áo của công tử,
đoạn trở lên khuê các, đóng cửa cài then mở thơ ra đọc, tiểu thư vốn là bậc văn hay
chữ giỏi, đọc suốt hết lời lẽ trong thơ rồi chép miệng than rằng: “Ôi! Công tử khờ
khạo làm sao, ai lại buộc theo vạt áo một bức thơ giết mình mà đi lang thang như vậy?
Nếu ta không thấy kịp còn chi là đời của công tử”.
Tiểu thư liền xé bỏ bức thư độc hại, nhái theo tuồng chữ và lời lẽ của ông
Trưởng giả vắn tắt như vầy: “Đây là trưởng tử của tôi tên là Ghosaka. Xin túc hạ thay
mặt tôi, tương lễ vật từ Gāmasata, lo cho nó đẹp duyên cùng ái nữ của ông Trưởng giả
bạn tôi, cắt chia nữa phần đất giữa làng chỗ túc hạ ở, cất một ngôi nhà xung quanh có
tường rào và thuê người canh gác cẩn mật phòng vệ chu đáo, xong rồi gởi thư phúc
đáp: “Tôi đã làm như vầy… như vầy…” thì ta hậu tạ chẳng dám quên ơn”. Thảo xong
bức thơ bỏ vào cẩm nang, tiểu thơ vội vã trở xuống chỗ Ghosaka đang ngủ, buộc trở
lại vào áo công tử như trước.
Ngủ một giấc đỡ mệt, công tử dậy dùng cơm trưa, rồi cất bước lên đường, đi
suốt cả đêm, sáng hôm sau công tử Ghosaka đến Gāmasata, gặp viên quản lý đang đi
công cán trong làng. Thấy Ghosaka viên quản lý bèn hỏi:
- Có việc chi vậy công tử?
- Cha tôi gởi thơ qua cho ông đây.
- Thư gì đâu, công tử cho tôi coi thử.
Tiếp lấy bức cẩm nang viên quản lý mở thơ ra đọc rồi phân bua với dân làng:
“Bà con ơi! Bà con coi đây, ông chủ thương tôi hết mình, ông gởi thư biểu tôi: “Hãy
lo cưới vợ cho trưởng nam của ta”. Vậy anh em hãy ráng lo sắp đặt củi nước sẵn sàng
nghe chưa”.
Phân chia công tác cho các gia chủ dự bị cuộc lễ hôn phối xong viên quản lý
khiến dọn miếng đất gọn gàng giữa làng và lo kiến tạo một ngôi nhà mới.
Kế đó viên quản lý sắp sanh lễ vật cầu hôn, đến rước tiểu thư ái nữ của ông
Trưởng giả về cử hành lễ tân hôn và tân gia cho công tử Ghosaka, đoạn cho người báo
hỷ tín cho ông Thiên hộ biết: “Tôi đã phụng hành mệnh lệnh Thiên hộ, làm như
thế…như thế…”.
Tiếp được hỷ tín, ông Thiên hộ càng thêm tức tối bội phần, ngày đêm vào thở ra
than: “Việc ta chủ mưu sao không thành, còn việc ta không chủ mưu thành sự như thế
làm chi”.
Lớp sầu con chết, lớp giận Ghosaka, hai mối ưu phiền dồn dập, khiến ông Thiên
hộ phát chứng đau bụng sanh ra kiết lỵ.
Đây nói về tiểu thơ con ông Trưởng giả, khi về ở nhà mới, nàng dặn dò hết các
gia tộc: “Nếu có người nhà của ông Thiên hộ qua đây, mà chưa gọi sai biểu các người
thì các người khoan đi báo tin cho công tử biết nghe không?”.
Còn ông Thiên hộ nằm trên giường bịnh, ông tính một mình: “Nghĩa tử là kẻ
ngoại thân, ta nhất định sẽ không lập nó lên là kẻ thừa kế sản nghiệp của ta”.
Nghĩ rồi, ông cho đòi quản gia đến bảo rằng: “Nầy cậu, ta muốn gặp mặt nghĩa
tử của ta. Vậy cậu sai một đứa bộ hạ đi kêu nó về đây!”.
- Dạ thưa vâng! – Viên quản lý đáp, rồi ông ấy thảo một bức thư, trao cho một
gia đinh cầm đi qua Gāmasata để rước công tử Ghosaka.
Khi nghe tin báo có đứa gia đinh của ông Thiên hộ mới qua, còn đứng ngoài
cổng ngõ chờ lịnh, tiểu thư con ông Trưởng giả cho gọi nó vào nhà và hỏi: “Cậu qua
đây có việc chi?”.
- Thưa tiểu thư, ông Thiên hộ bịnh, sai con đi rước công tử về cho ông thấy mặt.
- Nầy, cậu thấy ông bịnh mà còn khỏe hay yếu sức rồi?
- Thưa tiểu thư, ông còn khỏe, thấy ông vẫn ăn uống như thường?
- Thôi được, cậu cứ ở lại đây chơi, đợi lúc nào cô bảo về hãy về.
Tiểu thơ lấy tiền thưởng công cho tên gia đinh, sai người dọn chỗ cho nó ở lại,
nhưng cấm tuyệt không ai được thông báo cho công tử biết.
Ông Thiên hộ nằm chờ tin, lại hỏi viên quản gia: “Sao lâu quá vậy cậu! Hay là
cậu chưa sai đứa nào kêu con ta về đây phải không?”.
- Dạ thưa Thiên hộ, tôi đã sai gia đinh đi rồi, nhưng nó chưa về.
- Nếu vậy, cậu sai đứa nào khác đi tiếp theo coi.
Viên quản gia lại sai thêm một tên gia đinh khác. Đứa sau nầy qua Gāmasata
cũng bị tiểu thư đón hỏi thăm tin và lưu giữ lại như đứa trước.
Bịnh tình của ông Thiên hộ bỗng đâu biến chứng trở nên trầm trọng, cơm cháo
ông cho vào một bát thì cũng cho ra một bát. Lần thứ ba, ông hỏi viên quản gia: “Sao
lâu giữ vậy? Hay cậu không cho đứa nào đi gọi con ta về?”.
- Thưa Thiên hộ, tôi đã sai thêm đứa khác đi nữa rồi, nhưng nó cũng chưa về.
- Thế thì hãy sai thêm đứa khác đi nữa đi.
Viên quản gia lại sai thêm đứa khác đi qua rước công tử.
Đứa gia đinh thứ ba nầy cũng bị tiểu thư đón lại hỏi thăm: “Bịnh tình của ông
Thiên hộ lúc nầy ra sao?”. Nó đáp: “Thưa tiểu thư ông Thiên hộ bịnh nặng lắm, ông
tuyệt thực, nhắm chắc ông phải chết, ông bị ngay sống trường, ăn vô chút nào thì xổ
ra hết chút nấy”.
Tiểu thơ nghĩ thầm: “Lúc nầy chính là lúc nên đi”. Tiểu thơ bèn vào thưa với
chồng: “Có tin nhắn cho hay nghiêm đường thọ bệnh”.
- Hiền thê nói chi?
- Dạ thưa lang quân, phụ thân của chàng quý thể bất an.
Công tử Ghosaka lại hỏi vợ rằng: “Bây giờ ta phải làm gì đây há?”.
Tiểu thơ đáp: “Thưa lang quân! Ta nên đem theo sản phẩm ở Gāmasata để làm lễ
vật khi về thăm viếng gia nghiêm”.
- Ờ phải rồi!
Công tử khiến người mang lễ vật chất đầy mấy cỗ xe bò, đem đi theo, rồi hai vợ
chồng khởi hành.
Đi được nữa đường, tiểu thơ nói với chồng:
- Lịnh nghiêm đường đau yếu, ta về thăm mà mang nhiều lễ vật kềnh càng bất
tiện lắm. Thôi chàng hãy cho trả trở lại hết đi.
Nói rồi, tiểu thư cho xe đem tất cả về hết nhà ông Trưởng giả cha nàng. Tiểu thơ
lại dặn chồng: “Lang quân à! Lát nữa về thăm lịnh nghiêm, chàng hãy đứng phía dưới
chân, để thiếp đứng phía trên đầu nghe chàng”.
Vào tới trong nhà, công tử Ghosaka đứng phía dưới chân dưỡng phụ, còn nàng
thì đứng phía trên đầu ông.
Trong giờ ấy, ông Thiên hộ nằm ngửa, mắt nhắm thiêm thiếp, viên quản gia
đang ngồi bóp chân cho ông, bèn lên tiếng:
- Thưa Thiên hộ, có công tử mới về đây.
- Nó đâu?
- Dạ công tử đang đứng dưới chân Thiên hộ đó.
Trông thấy công tử Ghosaka, ông Thiên hộ cho mời viên tổng quản tài sản của
ông đến hỏi rằng:
- Gia tài của ta tất cả được bao nhiêu?
- Thưa Thiên hộ về tiền mặt, đồ vật dùng và xa xí phẩm độ bốn trăm triệu, còn
làng ấp, ruộng vườn, sản vật lương tức, tứ túc, xe cộ, mỗi thứ dược chừng nầy, chừng
nầy…
Nghe viên tổng quản phúc trình xong, ông Thiên hộ có ý muốn di chúc rằng:
“Chừng ấy tài sản của ta, Ghosaka là nghĩa tử, ta không cho quyền thừa kế”. Nhưng
khi thốt ra lời, ông Thiên hộ nói lộn là “Ta cho quyền thừa kế”. Tiểu thơ nghe dứt
tiếng, nàng mừng thầm tự nghĩ: “Nếu cho ông ấy nói sửa trở lại thì tình thế sẽ đảo
ngược hết”. Tiểu thơ liền giả cách bi thương, bứt tóc dậm chân khóc kể rằng: “Cha ơi
là cha, cha nói làm chi lời ấy, làm cho hai con nghe qua càng thêm đau khổ quá
chừng! Cha ơi là cha ơi…”.
Dứt lời, tiểu thơ giả vờ chồm tới trước, đập đầu ngay ngực ông Thiên hộ, rồi
nằm lì nơi đó khóc nỉ non tức tưởi, cốt ý không cho cha chồng mở miệng sửa lại chúc
ngôn. Nhưng ông Thiên hộ cũng vừa tắt thở ngay trong phút giây ấy.
Gia nhân vào trào bái kiến đức vua Udena để báo tin: “Ông Thiên hộ đã thất
lộc”. Quốc vương ban cho gấm vóc để đem về khâm liệm tống chung phú ông, đúng
theo nghi lễ và phán hỏi:
- Thiên hộ có con trai hay con gái chi không?
- Muôn tâu bệ hạ, Thiên hộ có một người con trai là công tử Ghosaka. Trước khi
thất lộc, Thiên hộ có chúc ngôn truyền hết tài sản lại cho công tử.
Sau đó một thời gian, đức vua triệu công tử Ghosaka vào triều bệ kiến.
Hôm ấy nhằm trời mưa to, trong sân ngự chỗ nào cũng có nước đọng vũng, công
tử Ghosaka tính thầm: “Ta đi chầu vua”, rồi một mình đi vào cung nội. Đức vua đứng
trong biệt điện, mở cửa sổ nhìn ra, thấy công tử đi đến đang nhảy tránh các vũng nước
trong sân mà vào cung.
Đến chỗ vua ngự, công tử triều bái, tung hô vạn tuế, rồi đứng lên. Đức vua phán
hỏi công tử:
- Khanh đây phải là Ghosaka không?
- Muôn tâu bệ hạ, phải! Hạ thần chẳng may nên nghiêm đường đã sớm thất lộc.
- Khanh đừng bị lụy, để trẫm phong chức Thiên hộ cho khanh, để khanh được
nối chức của cha.
Phán xong, đức vua ân tứ cho công tử mấy chung ngự tửu, rồi truyền bãi chầu:
“Trẫm cho phép khanh về”.
Khi Ghosaka về, đức vua còn đứng nhìn theo, thấy công tử đi thẳng một đường,
lội luôn qua các vũng nước, chứ không nhảy tránh như lúc vào cung. Đức vua lấy làm
lạ về cử chỉ của công tử Ghosaka, bèn triệu hồi và phán hỏi công tử:
- Nầy hiền khanh, tại sao lúc vào cung để triều kiến trẫm thì khanh nhảy tránh
các vũng nước, còn khi trở về khanh lội phăng xuống nước, đi thẳng một đường?
- Muôn tâu Thánh thượng, hạ thần lúc vào cung còn là một công tử, cho nên còn
giữ tánh bay nhảy bông lông, bây giờ đã được lịnh cửu trùng chẩn hứa sẽ ban cho
tước lộc triều đình, hạ thần không dám kinh suất như trước, cho nên phải đi đứng
chỉnh tề như thế.
Nghe công tử biện bạch, Quốc vương Udena cảm mến, khen rằng:
- Thiếu niên nầy có đủ tư cách, đáng được thụ phong ngay từ bây giờ.
Phán rồi, đức vua hạ chiếu chỉ, phong cho công tử Ghosaka giữ chức Thiên hộ
của cha, được phép thu thuế công đền công thổ một trăm thôn ấp như trước.
Công tử Ghosaka về nhà vinh quy bái tổ, công tử đứng trên một chiếc xe hoa,
nhiễu qua thành phố dân chúng khắp nơi tưng bừng chào đón, tiếng hoan hô vang dậy.
Tiểu thơ ở nhà đang trò chuyện với bà vú Kāḷī, tiểu thơ hỏi rằng: “Nhũ mẫu Kāḷī,
vú có biết rằng tất cả sản nghiệp của con trai vú, nhờ một tay con mà có không?”.
- Nhờ bằng cách nào hả con?
- Lúc trước công tử qua nhà con, bên vạt áo có buộc một phong thư mượn người
hạ sát chàng. Khi ấy chính tay con xé bỏ bức thư độc hại ấy và viết tráo một bức thư
khác, mượn người đứng chủ hôn cho công tử đứng cưới con. Nhờ con cứu mạng mà
công tử mới được sống sót đến ngày nay.
- Con à! Con chỉ biết thấy có bao nhiêu đó thôi. Chớ thật ra lão Thiên hộ đã lập
tâm mưu sát công tử nhiều lần, kể từ thưở công tử hãy còn bé thơ. Nhưng lão đã thất
bại hoàn toàn mặc dầu lão đã tung ra rất nhiều tiền của.
- Nhũ mẫu à! Lão Thiên hộ đã tạo thật nhiều nghiệp hết sức nặng nề, tội lỗi phải
không?
Thấy công tử đã nhiễu qua thành phố, trở về đến nhà, Tiểu thơ cười rằng: “Công
tử nhờ một tay thiếp mới được vinh hiển như thế”.
Thiên hộ Ghosaka thấy vợ cười thì hỏi:
- Tại sao nàng cười?
- Tại vì một lẽ riêng.
- Lẽ gì? Nói ta nghe thử.
Tiểu thư nín thinh, làm ra vẻ bí mật. Ghosaka rút kiếm ra giả vờ hăm dọa: “Nếu
thực không chịu khai, ta sẽ chém mi đứt hai bây giờ”.
Tiểu thơ nói: “Thiếp cười vì chàng nhờ thiếp mới được làm chủ bấy nhiêu sản
nghiệp nầy đây?”.
Ghosaka bảo vợ: “Tất cả tư sản nầy là của gia nghiêm truyền giao cho ta, ta thừa
hưởng là lẽ dĩ nhiên, nàng có công lao chi mà kể lể”.
Thiên hộ vẫn vô tình, không biết chi về ác tâm của dưỡng phụ trong thời gian
qua, nên khi nghe vợ kể công, thì chàng không tin.
Tiểu thơ bèn đem tất cả những điều ẩn khúc thuật lại một hồi: “Dưỡng phụ sai
chàng mang thơ, mượn tay người thủ tiêu chàng, mà chàng vô tình nào biết. Nhờ thiếp
đã làm như vậy… như vậy… để cứu mạng và che chở cho chàng sống đến ngày nay”.
- Không tin chàng cứ hỏi bảo mẫu Kāḷī thì biết.
- Thưa bảo mẫu vợ con nói đây có thật không?
- Thật thế con à, dưỡng phụ con mưu tính giết con khi con còn măng sữa nhưng
không được. Người đã xuất rất nhiều tiền sai đem bỏ con bảy lần ở bảy chỗ, mà con
đều thoát chết. Nên bây giờ con mới sống mà thừa hưởng di sản, được vua phong
chức Thiên hộ và ân tứ quyền thu thuế một trăm thôn ấy đó con.
Nghe hết tự sự, Thiên hộ Ghosaka giật mình, than thầm: “Ôi! Nghiệp báo của ta
quả thật nặng nề, cho nên mới chết hụt nhiều lần như vậy. May sao mà ta còn toàn
mạng… Nếu ta cứ buông lung phóng dật chẳng là trái đạo lắm ư? Từ rày ta không nên
dễ duôi nữa!”.
Nghĩ rồi, mỗi ngày Thiên hộ xuất ra một ngàn đồng tiền vàng để làm việc phước
thiện, như giúp kẻ lỡ đường, nuôi người tàn phế, châu cấp cho kẻ cô bần quả nhược…
Thiên hộ giao phó công việc chuẩn thí cho Trưởng giả Mittakuṭumbika trông coi.
DỨT TÍCH THIÊN HỘ GHOSAKA
Thưở ấy, nơi kinh thành Bhaddavatī, có viên ngoại là bạn đồng điệu “tương giao
tương kiến” (adiṭṭhapubba-sahāyako) của Thiên hộ Ghosaka.
Do những lái buôn từ thành Bhaddavatī đến Kosambi, Thiên hộ được nge danh
tiếng giàu sang của nhà cự phú ở nước láng giềng, sanh lòng ái mộ, muốn kết tình hữu
nghị nên gửi tặng phẩm đến cho viên ngoại. Bánh ích đi bánh quy lại, hai nhà giao
hảo như thế, nhưng chưa có dịp gần nhau. Một thời gian sau, nhà viên ngoại
Bhaddavatī bị nhiễm bịnh thiên thời (ahivātarogo). Ruồi lằn chết trước tiên, kế đến
kiến mối, chuột, bọ, gà vịt, heo, chó, mèo, bồ câu, tớ gái, tớ trai. Sau cùng tất cả gia
nhân đều chết trụi, những người sợ chết lây, bỏ nhà chạy đi lánh nạn thì còn được
sống sót. Trong số đó có viên ngoại Bhaddavatī, bà vợ và cô con gái tên là Sāmā (Ô
Nhi: Con đen).
Chạy thoát nơi tử địa rồi viên ngoại tính muốn qua thăm Thiên hộ Ghosaka, bèn
cùng vợ con lên đường đi Kosambi. Họ đi mới được nữa đường thì hết lương thực.
Dầu dãi phong sương, nhịn đói, nhịn khát thân thể mệt mỏi, tay chân rũ liệt, gian
nan lắm họ mới đi đến thành Kosambi. Kiếm chỗ có nước tắm rửa sạch sẽ cho mát
mẻ, rồi họ vào nghỉ trong một ký túc xá (sālā) ở đầu cổng thành.
Tạm trú yên nơi viên ngoại bảo vợ rằng: “Bà ơi! Chúng ta tiều tụy như vầy mà
đến nhà ai, dầu là nhà mẹ sanh đi nữa, coi cũng khiếm nhã, nghe đồn bạn ta là Thiên
hộ Ghosaka hằng ngày xuất cả trăm đồng tiền vàng để cứu giúp những người lỡ chân
trái bước, áo rách đói cơm, ta hãy sai con Sāmā đến đó xin vật thực, ta dùng đỡ một
đôi ngày cho lại sức, rồi hãy đến nhà viếng thăm bằng hữu của ta vậy”.
Bà Bhaddavatī cũng đồng tình: “Phải đó ông à”. Đêm ấy ba người ngủ luôn nơi
ký túc xá, sáng hôm sau, khi thấy đám bần nhân kéo đến xin vật thực, ông bà viên
ngoại kêu con gái:
- Con ơi! Con đi xin vật thực về cho cha mẹ đi con.
Than ôi! Một thiên kim tiểu thơ đến hồi mạt vận, cũng phải ráng dằn lòng chịu
nhục, ôm bát đi chung với đám ăn mày, đến đứng trước cửa nhà Trưởng giả Mitta.
- Cô bé đây lãnh mấy phần?
Nghe Trưởng giả hỏi, tiểu thơ đáp:
- Dạ thưa ba phần.
Trưởng giả cấp cho nàng ba phần ăn.
Lãnh thực phẩm xong, tiểu thư đem về ký túc xá cùng ngồi ăn chung với cha mẹ.
Bà viên ngoại nói: “Gia tài sự nghiệp của ta đều tiêu tan, nhưng cũng có ngày tạo
lại được cái khác, bây giờ ông nên bảo trọng thân thể, cứ ăn cho no đi, đừng lo cho mẹ
con tôi, mà cũng đừng nghĩ ngợi gì nữa”.
Bị hai người cố nài ni ép ăn viên ngoại Bhaddavatī thọ thực quá nhiều, nên bị
trúng thực phát ách, đau bụng cả đêm và trút hơi thở cuối cùng vào lúc mặt trời mới
rạng.
Hai mẹ con bà viên ngoại vật mình than khóc, tình cảnh ái ly tử biệt thật là thống
thiết bi ai…
Sáng hôm ấy, tiểu thư Sāmā vừa gạt lệ sầu vừa đi đến chỗ phát chẩn. Thấy tiểu
thư, Trưởng giả Mitta lại hỏi:
- Cô bé lãnh mấy phần?
Tiểu thư đáp: “Dạ thưa hai phần”.
Trưởng giả bèn cấp cho tiểu thư hai phần ăn, tiểu thư đem thực phẩm xin được
về dâng hết cho mẹ và yêu cầu bà ăn cho no, chiều theo lòng con gái, bà viên ngoại
dùng bữa ăn quá sức mình vật thực không tiêu hóa được làm cho bà sình bụng, phát
ách và từ trần luôn ngày ấy.
Tiểu thư Sāmā còn sống một mình, hết khóc lại than, muôn sầu vạn thảm, quê
người vò võ, tứ cố vô thân, chút phận liễu yếu đào tơ, luống chịu truân chuyên nhiều
nỗi.
Đã khổ tâm còn đói bụng, ngày sau tiểu thư phải gắng gượng đi xin ăn vừa đi
vừa gạt lệ sầu.
Cô bé lãnh mấy phần ăn?
Dạ thưa, chỉ một phần.
Từ ba ngày nay, Trưởng giả Mitta thấy cô bé nầy mỗi ngày mỗi giảm một phần
ăn, nên khi nghe cô đáp “một phần”, thì nói giọng khinh miệt rằng: “À cô bé ăn mày!
Bữa nay mày mới tiết độ rồi hả?”.
Tiểu thư Sāmā cảm thấy xót xa tủi nhục như vừa bị ai xát muối vào vết thương
lòng, nhưng cũng còn gượng hỏi lại rằng:
- Dạ thưa, ông nói chi?
- Bữa đầu mày lãnh ba phần, hôm qua lãnh hai phần, hôm nay lãnh một. Vậy là
hôm nay mày biết tiết độ rồi đó.
- Dạ thưa ông chủ, xin ông đừng hiểu lầm là tôi xin về ăn một mình tôi.
- Thế thì tại sao cô bé đã lãnh tới ba phần?
- Bữa đầu, chúng tôi cả thảy ba người, hôm qua còn hai, bữa nay còn một mình
tôi mà thôi.
Trưởng giả chưa hiểu rõ nguyên nhân, hỏi tiếp: “Tại làm sao, đâu em nói rành rẽ
cho ta nghe thử?”.
Sau khi tiểu thư Sāmā kể hết nỗi nhà tan tác vì tai biến, trôi nổi thân lạc loài.
Trưởng giả Mitta cầm lòng không được, nước mắt tuôn rơi.
Trưởng giả an ủi tiểu thư: “Thôi chuyện đã qua rồi, em đừng khêu gợi lại nữa.
Con gái của viên ngoại Bhaddavatī cũng như con gái của ta, từ giờ trở đi ta nhận con
làm nghĩa nữ”.
Nói rồi, Trưởng giả hôn lên đầu Sāmā, dắt nàng vào nhà, lập nàng lên làm
trưởng nữ của mình.
Khi ấy, trong phước xá (Dānagga) có nhiều tiếng ồn ào huyên náo. Tiểu thư
Sāmā hỏi dưỡng phụ rằng:
- Thưa cha, sao cha không bảo đám người kia êm lặng và cha bố thí cho họ vậy?
- Không có cách nào làm cho họ im lặng được con à!
- Thưa cha, con có cách làm được.
- Làm sao được hả con?
- Thưa cha! Cha hãy cho xây rào ngang phía trước phước xá chỉ chừa hai bên
cửa ra vào, rồi cha dặn hò: “Đi vô bên nầy, đi ra bên kia”. Làm như vậy thì cha sẽ giữ
được trật tự. Họ hết chen lấn ồn ào, ai cũng đi vô lãnh phần mình và đi ra êm thắm.
Trưởng giả Mitta nghe dứt lời khen rằng: “Hay quá, phương pháp của con hay
quá”. Rồi Trưởng giả làm y như lời đề nghị của cô nghĩa nữ.
Tiểu thư trước đây tên là Sāmā, nay vì có sáng kiến làm hàng rào trước phước
xá, nên được người gọi là Sāmāvatī. Từ đó về sau, trong phước xá dứt hẳn tiếng ồn ào
náo nhiệt, sự thay đổi nầy làm cho Thiên hộ Ghosaka để ý, lúc trước mỗi khi nghe
tiếng người lao xao vọng đến nhà mình, Thiên hộ rất hài lòng, nói thầm: “Tiếng huyên
náo ở phước xá ta đó”. Cách hai ba bữa nay, nghe trong phước xá lặng trang, Thiên hộ
lấy làm lạ, bèn đích thân đến gặp Trưởng giả Mitta để gạn hỏi cho biết nguyên nhân.
- Công việc chẩn thí vẫn tiếp tục như thường chứ.
- Dạ vâng, thưa Thiên hộ.
- Tại sao hai ba bữa nay nghe lặng trang, không có tiếng tăm chi hết vậy?
- Thưa Thiên hộ vì tôi áp dụng phương pháp khiến họ được im lặng trước khi
lãnh phần cấp thí.
- Thế sao từ trước ông không áp dụng phương pháp ấy?
- Thưa Thiên hộ vì trước kia tôi chưa biết.
- Sao bây giờ lại biết?
- Thưa Thiên hộ, nhờ có trưởng nữ của tôi nó bày cách cho tôi.
- Ủa lạ, từ hồi trước tới giờ, ta chưa nghe nói là ông có con gái mà.
Trưởng giả Mitta bèn đem hết lai lịch của tiểu thư Sāmāvatī, từ khi viên ngoại
chết đi cho đến lúc Trưởng giả nhận tiểu thư Sāmāvatī làm trưởng nữ của mình, thuật
lại một hồi. Nghe xong, Thiên hộ Ghosaka trách rằng:
- Chuyện như vậy, mà sao ông không cho ta hay? Con gái của bạn ta tức là con
gái của ta. Ông kêu nó ra đây cho ta hỏi coi.
Thiên hộ nói tiểu thư Sāmāvatī rằng:
- Con là ái nữ của viên ngoại Bhaddavatī phải không?
- Dạ thưa Ngài, phải.
- Nếu vậy con đừng buồn lo nữa, ta nhận con làm con gái của ta, con chịu
chăng?
Thiên hộ Ghosaka hôn lên mái tóc đen huyền của cô gái mồ côi, cấp cho cô năm
trăm nữ tỳ và đặt lên địa vị tiểu thư, trưởng nữ của thiên hộ.
Ngày lễ Quốc khánh trong thành Kosambi, nhân dân vui chơi tưng bừng, rộn rịp.
Theo tục lệ, ngầy nầy ai ai cũng được tự do, mấy cô thiếu nữ “khuê môn bất xuất” đều
dắt cả nhóm thị tỳ của mình đi bộ ra bờ sông để tắm gội.
Nhân dịp lễ hội, tiểu thư Sāmāvatī cùng với năm trăm thị nữ dắt nhau đi tắm
sông. Họ diễu ngang qua sân ngự trước đền vua.
Quốc vương Udena đứng trong hoàng cung nhìn qua song cửa sổ, thấy tiểu thư
Sāmāvatī, bèn phán hỏi thị thần: “Vũ nữ nầy là của ai?”.
- Tâu bệ hạ! Nàng là ái nữ của Thiên hộ Ghosaka, mỹ danh là Sāmāvatī.
Quốc vương Udena từ lúc thấy tiểu thư Sāmāvatī thì đem lòng sủng ái, bèn hạ
chiếu chỉ truyền lệnh cho Thiên hộ Ghosaka đưa tiểu thư tiến cung.
- Muôn tâu Thánh thượng, thần không thể nào đưa con gái tiến cung. – Thiên hộ
Ghosaka đáp.
- Khanh chớ vi lịnh quả nhân như thế. Hãy mau đưa lịnh ái tiến cung lập tức.
- Muôn tâu chúa thượng, luật nước tuy nghiêm minh, không có lệ xử phạt, giam
cầm người vô tội. Quyền cha thì hữu hạn thì làm sao hạ thần áp chế, đánh đập, ép
uổng duyên con. Hạ thần không thể đem con gái mình mà hiến nạp vào cung.
Đức vua nổi trận lôi đình chỉ bộ, ra lịnh cho quan quân niêm phong nhà cửa của
Thiên hộ Ghosaka, dắt hai ông bà đại phú đuổi tống ra bên ngoài.
Tiểu thư đi tắm về bị cấm cửa, không vào nhà được, bèn hỏi ông Thiên hộ:
- Sao có việc nầy vậy thưa cha?
- Nầy con, đức vua đưa sứ đến, đòi tuyển con vào cung, cha mẹ không phục tùng
vương lịnh. Đức vua phẫn nộ ra lịnh niêm phong nhà cửa, đuổi tống cha mẹ ra ngoài
như vậy đây.
- Thưa cha, - tiểu thư nói - Cha đã phạm tội khi quân, tội ấy rất nặng. Phàm đạo
làm tôi không nên cãi lịnh nhà vua. Thưa cha, con thiết tưởng, cha nên tâu cùng đức
vua, xin cho cả đoàn thị nữ cùng nhập cung với con.
- Hay thay! Nếu con đã thuận tình gần gũi quân vương thì cha mẹ sẽ chiều ý con
mà tâu lên Thiên tử.
Nói rồi Thiên hộ Ghosaka cho người dâng sớ tâu lên Thiên tử. Đức vua chấp
nhận bằng lời chuẩn tấu, đoạn khiến quân binh đến rước tiểu thư Sāmāvatī với đoàn
thị nữ nhập cung. Đức vua tấn phong tiểu thư là chánh cung Hoàng hậu, còn năm trăm
thị nữ của tiểu thư đều được chuẩn nhận làm cung nữ.
DỨT TÍCH TIỂU THƯ SĀMĀVATĪ
Đức vua Udena còn có một bà Thứ hậu tên là Vāsuladatta (Hòa Tu Lạc Thí), là
công chúa con vua Caṇḍapajjota (Huy Đăng) trị vì Ujjenīya.
Hoàng đế Caṇḍapajjota là một vị vua có nhiều tham vọng hằng mong đi chinh
phạt các nước nhược tiểu để mở rộng bờ cõi nước mình.
Một hôm, trên đường du ngoạn trở về nhà vừa háo chiến vừa tự đắc nhìn ngắm
giang san của mình, rồi phán hỏi quần thần: “Có lãnh thổ của quốc vương nào bì kịp
với lãnh thổ của trẫm đây chăng?”.
Bá quan tâu rằng: “Muôn tâu Chúa thượng, nếu so với lãnh thổ của Quốc vương
Udena thì đất nước của chúng ta chưa thấm vào đâu cả vì xứ Kosambi là một xứ rộng
lớn vô cùng”.
Nghe vậy, Hoàng Đế Caṇḍapajjota phán rằng:
- Thế thì trẫm sẽ tương tập binh, thôn tính xứ Kosambi.
- Muôn tâu Thánh thượng, không thể được.
- Tại vì sao thế?
- Vì vua Udena biết phép điều tượng, miệng niệm mật chú, tay khảy đàn thần
vua ấy có thể huy động đàn voi chiến chạy tới chạy lui đúng theo binh pháp. Nước ta
không có tượng binh hùng hậu và người tài giỏi như vua ấy đâu?
- Trẫm không bắt sống được vua ấy sao?
- Muôn tâu chúa thượng, nếu chúa thượng quyết bắt cho được vua Udena thì
phải dụng mưu kế như vầy: Chúa thượng nên khiến thợ mộc rành nghề, chế tạo một
con tượng bằng gỗ, rồi cho quân đem thả gần ranh giới nước vua Udena. Hễ vua ấy
nghe đồn có voi chiến, hoặc ngựa chiến ở đâu, thì dầu cho xa xôi cách mấy cũng tìm
đến tận nơi, khi ấy ta phục binh thì bắt được vua Udena dễ dàng như trở bàn tay.
Hoàng đế Caṇḍapajjota nghe tâu rất đẹp ý, bèn khiến tuyển nhiều thợ khéo, đặt
cho họ làm một con tượng máy bằng gỗ, bên ngoài lấy vải cũ xù xì như da voi phủ
lên, bên trong sắp đặt cơ quan điều động, đứng xa trông có vẻ linh hoạt như là voi
sống thật sự, xong rồi Hoàng đế Caṇḍapajjota khiến quân sĩ đem tượng máy đến tận
biên thùy, đặt nó đứng trên bờ của một hồ nước, trong bụng voi có đến sáu mươi quân
sĩ điều khiển cho nó đi tới đi lui chỗ nầy, chỗ nọ. Họ đem theo phẩn voi để trải đường
voi đi. Một người thợ rừng xứ Kosambi trông thấy con bạch tượng trước nhất “Thớt
tượng nầy rất xứng với quân vương ta”. Nghĩ vậy, người ấy về trào tâu với vua
Udena:
- Muôn tâu chúa thượng! Hạ thần đi rừng gặp một con voi trắng phau nhau như
ngọn núi tuyết. Thật là một thứ bạch tượng quý rất xứng đôi với chúa thượng.
Lập tức vua Udena phong cho thợ rừng làm hướng đạo viên, rồi vua cưỡi voi
cùng với đoàn quân hộ giá lên đường đi săn bạch tượng.
Thấy vua Udena trúng kế, bọn thám tử thông tin cho Hoàng đế Caṇḍapajjota
hay.
Vua Caṇḍapajjota ngự giá đến nữa đường, khiến quân sĩ an dinh hạ trại, đoạn bố
trí hai đội quân mai phục hai bên con đường chẹt, chờ vua Udena đến.
Vua Udena không hay biết cơ mưu của địch, chỉ cứ mải riết rượt theo con bạch
tượng giả, bị đuổi gần, bọn người trong mình con voi gia tăng tốc độ, hướng về nơi có
phục binh chạy tới.
Vua Udena giở thuật niệm chú, khảy đàn để trục hồi tượng chúa, nhưng con voi
gỗ không tuân theo phép, bỏ chạy đi luôn.
Thấy cưỡi voi rượt không kịp, đức vua Udena liền bỏ voi, thót lên một con tuấn
mã, thúc ngựa đuổi theo.
Ngựa vua phi nước đại, bỏ cả đoàn quân hộ tống rớt lại phía sau, đưa một mình
vua vào nơi hiểm địa.
Khi ấy hai đội binh của hoàng đế Caṇḍapajjota rời chỗ mai phục, xông ra đón
đường vây bắt được vua Udena, đem về nạp cho chúa tướng.
Đoàn quân hộ giá của vua Udena chạy trờ tới, thấy vua mình bị sa lưới địch, đã
bị sanh cầm, bèn lập tức thối lui, đồn trú ngoài biên giới.
Sau khi dùng mưu bắt sống được vua Udena, Hoàng đế Caṇḍapajjota ra lịnh hạ
ngục nhà vua thất thế, sai lính canh phòng cẩn thận, đoạn mở tiệc khao quân, ăn mừng
thắng trận trong ba ngày liền. Đến ngày thứ ba vua Udena kêu gọi các lính canh:
“Chúa tướng các ngươi đâu?”.
- Đang uống rượu mừng bắt được vua nước địch.
Nghe vậy vua Udena quát mắng rằng: “Chúa tướng của chúng bây hành động y
như là hạng phụ nữ. Lẽ thường, trên chiến địa hễ bắt được vua nước nghịch, một là
tha, hai là giết, chớ có đâu mà giam cầm cô gia mãi, để cùng nhau uống rượu ăn
mừng”.
Bọn lính canh chạy đi tâu lại những lời trên đây với chúa tướng. Hoàng đế
Caṇḍapajjota thân ngự đến đề lao, hỏi vua Udena: “Phải quốc vương đã buông lời
khiển trách khiếm nhã đối với quả nhân như thế chăng?”.
- Tâu đại vương, phải.
- Quả nhân nghe đồn Quốc vương biết pháp điểu khiển tượng, nếu Quốc vương
truyền dạy quả nhân phép ấy, quả nhân sẽ thả Quốc vương ra ngay.
- Được rồi, cô gia sẽ dạy, nhưng trước khi thọ giáo, đại vương phải làm lễ bái sư,
nào đại vương đảnh lễ đi.
- Quả nhân chẳng đảnh lễ ai cả.
- Đại vương không khứng hạ mình làm lễ bái sư hay sao?
- Quả nhân không làm lễ bái sư.
- Thì cô gia cũng không truyền phép điều tượng.
- Nếu Quốc vương giấu nghề, quả nhân sẽ đưa Quốc vương theo chầu tiên đế.
- Thân ta như cá nằm trên thớt, đại vương cứ giết phứt ta đi, chớ đừng mong làm
chủ được tâm ta.
Nghe tù nhân phẫn uất la to, Hoàng đế Caṇḍapajjota biết không thể thị oai, nghĩ
rằng: “Bây giờ ta phải tìm cách nào học lấy mật chú nầy cho kỳ được. Ta không nên
để tiết lộ ra ngoài. À hay ta hãy cho Công chúa con ta đến học với hắn, rồi sau đó ta sẽ
học lại của Công chúa”.
Suy nghĩ chín chắn rồi, Hoàng đế Caṇḍapajjota hỏi lại vua Udena: “Nếu có ai
khác đảnh lễ Quốc vương để thọ giáo thì quốc vương sẽ truyền dạy mật chú cho người
ấy phải chăng?”.
- Tâu đại vương, phải.
- Nếu vậy, trong hoàng cung có đứa con gái lưng gù, để quả nhân bảo nó ngồi
bên trong bức rèm đảnh lễ , còn Quốc vương thì hãy đứng bên ngoài mà dạy nó học.
- Tâu đại vương! Gù lưng hay què cẳng chi cũng được, miễn là làm lễ bái sư, thì
cô gia sẽ truyền bí thuật.
Hoàng đế Caṇḍapajjota liền trở về cung điện bảo công chúa Vāsuladatta: “Nầy
công chúa, có một thanh niên cùi phong lở lói mà biết câu mật chú quý giá vô cùng,
phụ vương không muốn hắn tiết lộ cho kẻ nào biết được. Vậy con hãy ngồi sau bức
rèm làm lễ bái sư, rồi học câu chú ấy. Còn hắn ta, phụ vương sẽ khiến đứng phía
ngoài bức rèm mà dạy con học, thôi để phụ vương dắt hắn đến đây”.
Hoàng đế Caṇḍapajjota đã bịa ra cô gái gù lưng và gã thanh niên cùi như thế, để
cho hai bên ghê sợ lẫn nhau mà không dám suồng sã lả lơi.
Bị bức rèm ngăn cách, hai đàng không trông thấy rõ nhau. Chờ Công chúa đảnh
lễ và ngồi xuống xong vua Udena đứng bên ngoài nói vọng vào để truyền dạy mật
chú.
Suốt cả ngày hôm ấy, ông thầy nhắc đi nhắc lại có một câu chú, mà cô học trò
nói theo cũng không đúng giọng. Vua Udena bực mình gắt gỏng: “Cô gái lưng gù nầy
đây, môi và má cô dầy quá đi thôi. Tôi phải tát tai cô mới được. Cô phải đọc trúng
giọng như vầy nè”.
Công chúa nổi giận cũng mắng trả lại: “Cái thằng cha cùi phong lở lói nầy đừng
có ăn nói hàm hồ, người như ta mà ngươi dám kêu là cô gái gù lưng phải không?”.
Công chúa vén rèm lên nhìn vua Udena. Vua Udena hỏi:
- Tiểu thư là ai?
- Ta là công chúa Vāsuladatta.
- Đại vương đã nói với ta rằng: “Công chúa là cô gái lưng gù”.
- Phụ vương cũng nói với ta rằng: “Quốc vương là gã thanh niên cùi phong lở lói”.
Hai người đồng chung một ý nghĩ: “Chắc phụ hoàng sợ chúng ta gần gũi thân
mật nhau nên nói vậy”.
Rồi họ đưa nhau vào bên trong bức rèm tư tình với nhau. Từ đó về sau, không
còn có chuyện dạy chú thuật, học thuật chi nữa cả. Hoàng đế Caṇḍapajjota không hay
biết chuyện nầy và thường hỏi thăm công chúa: “Con có học pháp thuật không con?”.
- Tâu phụ vương, con vẫn đang học.
Nấn ná ở nước ngoài được ít lâu. Một hôm vua Udena than thở cùng công chúa
Vāsuladatta: “Công chúa ơi! Tình nghĩa vợ chồng đậm đà, thắm thiết dù cho cha mẹ,
anh em ruột cũng chẳng sánh bằng. Nếu công chúa thật dạ yêu ta, thì ráng giúp ta
được đào sanh cùng nhau trở về cố quốc, ta sẽ phong cho Công chúa làm Hoàng hậu
và cấp cho năm trăm cung phi mỹ nữ theo hầu”.
- Nếu như quân vương đoan thệ giữ lời kim thạch thì thần thiếp nguyện sẽ tận
tình mà khai lộ đào sanh.
- Ái hậu ơi! Trẫm sẽ giữ đúng như lời đã hứa.
- Thôi được rồi, xin Quân vương hãy vững dạ.
Hôm ấy, Công chúa vào vương cung bái kiến phụ hoàng, rồi đứng qua một bên.
Hoàng đế Caṇḍapajjota liền phán hỏi:
- Công chúa, con học hết phép điều tượng rồi phải không?
- Tâu phụ vương, con học chưa hết.
Vua lại phán:
- Thế thì con có điều chi muốn tỏ trần?
- Tâu phụ vương! Chúng con cần có một cửa thành riêng biệt và một con vật
thần hành (Vāhana).
- Để làm chi vậy con?
- Tâu phụ vương, người thí nghiệm thần chú cần phải ra phía ngoài thành trong
lúc ban đêm để kiếm một vị thuốc, cho nên chúng con cần phải có một cửa thành đặc
biệt và một con vật thần hành để tiện dụng trong lúc xuất thành chánh thời hoặc phi
thời cũng được.
Đức vua chuẩn tấu. Đôi tình nhân vui mừng hớn hở, đích thân ra khai một cửa
thành đặc biệt.
Hoàng đế Caṇḍapajjota có đến năm vật thần hành. Một con voi cái tên là
Bhaddavatī (Hiền Ly) mỗi ngày đi được năm mươi do tuần. Một quan nội thị tên là
Kāla (Ô Nha) mỗi ngày đi sáu mươi do tuần, hai con thiên lý mã là Velakaṃsi và
Muñjakesi mỗi ngày chạy được một trăm do tuần và con voi chúa Nāḷāgiri mỗi ngày
đi được một trăm hai mươi do tuần.
Tương truyền rằng: Trong tiền kiếp, trước thời kỳ Đức Phật Tổ Gotama giáng
sanh, Hoàng Đế Caṇḍapajjota là bộ hạ của Tổng trấn (Issara).
Một ngày nọ, nhằm lúc quan tổng trấn ra ngoài ngoại ô để tắm, đang đi trở về thì
gặp vị Phật Bích Chi (Paccekabuddha) vào thành khất thực, bị Ma vương cản trở
khiến toàn thể dân chúng không ai để bát, nên Ngài chẳng thọ dụng chút ít vật thực
nào hết, bèn ôm bát không trở ra.
Đã vậy, Ma vương còn hóa hiện ra một người lạ mặt đứng đón Ngài tại cổng
thành để hỏi: “Bạch Ngài! Ngài đi bát có được chút ít gì không?”. Đức Phật Độc Giác
hỏi lại Ma vương:
- Vì cớ nào mà ngươi phá rối, làm cho ta đi bát không được chi hết vậy?
- Thế thì Ngài hãy trở lại thành, phen nầy tôi không phá Ngài nữa đâu.
Kỳ thật nếu Đức Phật Độc Giác trở vào thành thì Ma vương sẽ nhập vào mình
toàn thể dân chúng khiến cho họ vỗ tay cười rộ lên chế nhạo Ngài. Nhưng Đức Phật
từ khước không vào lại thành, thấy gạt Đức Phật không được, Ma vương biến mất.
Khi ấy, quan Tổng trấn trông thấy Đức Phật Độc Giác ôm bát không đi ra, bèn
kính cẩn đảnh lễ Ngài, rồi hỏi rằng:
- Bạch Ngài, chẳng hay Ngài đi bát có được chút chi chăng?
- Nầy đạo hữu! Đi vào rồi, bây giờ ta đi ra.
Quan Tổng trấn ngẫm nghĩ: “Đại đức không trả lời câu hỏi của ta, mà lại nói
lảng qua chuyện khác, chắc là Ngài không được chi hết”.
Khi đến xin Đức Phật Bích Chi cho xem bát, quan Tổng trấn nhìn thấy bát trống
không, ý muốn xin thỉnh bát mà chưa dám vì không biết chắc ở nhà mình cơm nước
đã chín sẵn chưa?
- Bạch Ngài! Xin thỉnh Ngài đi thong thả lại một chút.
Nói rồi quan Tổng trấn bươn bả trở về nhà, hỏi rằng: “Ở nhà cơm nước có chín
sẵn chưa hả?”.
- Thưa sẵn cả rồi.
Nghe vậy, quan Tổng trấn gọi tên bộ hạ thân tín, bảo rằng:
- Nầy con! Nội nhà không có ai chạy lẹ bằng con vậy con ráng hết tốc lực chạy
theo cho kịp Ngài Đại đức, bạch Ngài cho con thỉnh cái bát, rồi ôm bát chạy bay trở
về đây.
Quan Tổng trấn vừa dứt tiếng nói thì tên bộ hạ đã phát sải như giông, chạy lấy
bát đem về tức khắc. Quan Tổng trấn đem phần cơm ăn của mình đặt vào đầy bát rồi
trao cho tên bộ hạ: “Nầy con, con chạy ra cho mau dâng bát thực phẩm nầy lên Ngài
Đại đức! Phần phước của sự cúng dường nầy, ông cho con hết đó”.
Tên bộ hạ nhận lãnh bát vật thực, lại vội vã chạy thật nhanh, đến dâng bát lên
Đức Phật Độc Giác, rồi gieo năm vóc xuống đất, đảnh lễ Ngài xong, phát nguyện
rằng: “Bạch Ngài, do phước báu đã chạy đi cấp tốc, chạy về cũng cấp tốc của tôi hôm
nay, xin cho tôi làm chủ được năm vật thần hành thiên lý, đi được năm mươi, sáu
mươi, một trăm và một trăm hai mươi do tuần mỗi ngày trong đời cận lai. Do sự nồng
nhiệt của thân tôi khi chạy đi chạy lại dưới ánh mặt trời gay gắt, xin cho tôi tái sanh
lên cõi nào cũng được oai lực sáng chói như ánh mặt trời. Do nơi phước báu để bát
của chủ tôi cho tôi, xin cho tôi chứng được phép mầu cũng như Ngài vậy”.
Đức Phật Bích Chi đáp: “Mong cho được như ý” và Ngài đọc bài kệ phúc chúc
như sau:
“Icchitaṃ patthitaṃ tuyhaṃ,
Khippameva samijjhatu;
Sabbe pūrentu saṅkappā,
Cando paṇṇaraso yathā”.
“Icchitaṃ patthitaṃ tuyhaṃ,
Khippameva samijjhatu;
Sabbe pūrentu saṅkappā,
Maṇi joti raso yathā”.
“Cầu cho bao nhiêu phước đã ước nguyền,
Của thí chủ mau kết quả nhãn tiền.
Bao nhiêu tư duy đạt thành viên mãn,
Như tối rằm, trăng chiếu sáng khắp miền.
Cầu cho bao nhiêu phước đã ước nguyền,
Của thí chủ mau kết quả nhãn tiền.
Bao nhiêu tư duy đạt thành viên mãn,
Như ngọc Ma ni, như ý chơn truyền”
Theo huyền thoại, hai bài kệ phúc chúc nầy đã có từ thời Đức Phật Bích Chi và
được truyền tụng mãi đến ngày nay.
Trong bài kệ sau, thành ngữ Maṇijotiraso chỉ thứ ngọc Ma ni bảo châu, giúp cho
sở hữu chủ có thể thành tựu tất cả mọi điều mong ước.
Tên bộ hạ của quan tổng trấn trong thời dĩ vãng, nay là Hoàng đế Caṇḍapajjota,
do phước báu của tiền nghiệp đã kể, mà năm món vật thần hành phát sanh đến Hoàng
đế vậy.
Một hôm, Hoàng đế xuất thành du ngoạn trong vườn thượng uyển. Vua Udena
nghĩ: “Hôm nay, ta phải nhân lúc đại vương đi vắng mà tẩu thoát cho mau”. Vua tom
góp vàng, bạc dồn đầy mỗi thứ trong một cái bao da thật lớn, chất lên lưng con voi cái
Bhaddavatī, rồi cùng với Công chúa Vāsuladatta cỡi voi bôn đào.
Huỳnh môn quan trông thấy hai người chạy trốn, bèn tức tốc báo với Hoàng đế
Caṇḍapajjota. Hoàng đế hạ lịnh cho tướng sĩ dẫn binh rượt theo truy nã, thấy đại quân
đuổi gần theo phía sau. Vua Udena mở miệng bao đựng tiền vàng ra, ném rải xuống
đất, quân sĩ đang chạy nhanh, bỗng dừng lại tranh nhau lượm cho hết tiền vàng, rồi
mới lên ngựa rượt đuổi theo nữa. Vua Udena lại mở miệng cái bao đựng bạc, ném rải
tứ tung theo đường, tướng sĩ mãi ham lo lượm bạc nên đình bộ lần thứ hai.
Nhờ vậy vua Udena với Công chúa Vāsuladatta chạy vượt qua khỏi biên giới về
tới địa phận xứ Kosambi.
Đội quân đồn trú nơi biên ải, thấy vua Udena đã về, liền nhổ trại hộ tống Quốc
vương trở lại kinh đô. Về đến nơi vua Udena giữ lời hứa tấn phong Công chúa
Vāsuladatta làm thứ cung Hoàng hậu.
Comments