top of page
Ảnh của tác giảKinh Pháp Cú

Tích Truyện Kinh Pháp Cú 225 - CHƯ TĂNG VẤN ĐẠO

Đã cập nhật: 13 thg 7



“Ahiṃsakā ye munayo, Niccaṃ kāyena saṃvutā. Te yanti accutaṃ ṭhānaṃ, Yattha gantvā na socare”.

"Bậc hiền không hại ai,

Thân thường được chế ngự,

Đạt được cảnh bất tử,

Đến đây, không ưu sầu."


Pháp Cú nầy được Đức Thế Tôn thuyết lên khi Ngài ngự tại Añjanavana, gần thành Sāketa, đề cập đến câu hỏi của vị Tỳ khưu.


Tương truyền rằng: Khi Đức Thế Tôn với đoàn Tăng lữ vào thành Sāketa khất

thực, một lão Bà la môn từ trong thành đi ra, gặp Đức Thập Lực, liền nằm mọp xuống

dưới chân Ngài, nắm chặt lấy hai cổ chân Ngài và nói rằng:


- Con ơi! Con há chẳng phải có phận sự phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già ư? Tại

sao bấy lâu nay con không về thăm mẹ của con. Mãi đến giờ đây cha mới gặp mặt

con. Con hãy trở về thăm mẹ của con.


Ông nắm lấy tay Đức Thế Tôn dắt về nhà mình. Đức Bổn Sư ngự đến đó, ngồi

vào chỗ ngồi được soạn sẵn cùng với chư Tỳ khưu.


Bà vợ ông Bà la môn ấy cũng đi đến nằm trước chân Đức Thế Tôn và nói:


- Nầy con ơi! Bấy lâu nay con đi đâu? Con há chẳng phải có phận sự phụng

dưỡng cha mẹ lúc tuổi già ư?


Rồi bà bảo các con trai, con gái hãy ra đảnh lễ: “hãy đảnh lễ anh các con đi”.

Với tâm thỏa thích, hai ông bà cúng dường đến Tăng chúng có Đức Phật là vị Thượng

thủ, rồi bạch rằng:


- Bạch Ngài! Xin thỉnh Ngài thường xuyên thọ bát tại nơi đây.

- Nầy Bà la môn! Chư Phật không bao giờ thường xuyên thọ bát ở một nơi như

vậy.


“Nếu vậy thì những ai đến thỉnh Ngài, xin Ngài hoan hỷ bảo họ đến với chúng

tôi”.


Kể từ đó, những người đến thỉnh Đức Thế Tôn, Ngài đều dặn dọ: “Hãy báo tin

cho ông Bà la môn biết nhé”. Họ đến bảo ông rằng:


- Ngày mai chúng tôi sẽ thỉnh Đức Thế Tôn đến nhà trai tăng.


Hôm sau, ông Bà la môn mang cơm canh từ nhà mình đến nơi ngự của Đức Thế

Tôn. Những ngày không có ai thỉnh thì Đức Thế Tôn ngự thọ thực tại nhà của ông bà

Bà la môn ấy.


Hai ông bà cúng dường Đức Thế Tôn và nghe pháp từ Đấng Như Lai như thế,

thời gian sau chứng đắc quả A Na Hàm.



Chư Tỳ khưu câu hội cùng nhau trong Giảng đường bàn luận:

- Nầy các hiền giả! Ông Bà la môn ấy biết Đức vua Suddhodana là cha và Hoàng

hậu Māyā là mẹ Đức Như Lai. Đã biết thế, mà ông bà còn gọi Đức Như Lai là “Con

của chúng ta”. Và Đức Thế Tôn lại chấp nhận như thế chứ? Tại sao vậy nhỉ.

Đức Thế Tôn nghe chư Tăng thắc mắc, bèn giải thích rằng: - Nầy các Tỳ khưu! Hai ông bà gọi Như Lai là con trai của chúng ta, là hai ông

bà đã kêu con của mình thật vậy.

Rồi Ngài dẫn tiền tích rằng: Nầy các Tỳ khưu! Vào thời quá khứ, Bà la môn nầy

là cha ta liên tiếp 500 kiếp, làm dượng ta 500 kiếp liên tiếp, làm ông nội ta 500 kiếp

liên tiếp. Còn bà Bà la môn đã 500 kiếp liên tiếp là mẹ ta, 500 kiếp làm cô ta, và 500

kiếp liên tiếp làm bà nội ta. Thế là ta được trưởng dưỡng trong tay ông bà Bà la môn

một ngàn năm trăm kiếp như thế.

Sau khi giải rõ tiền tích, Đức Thế Tôn ngâm lên kệ ngôn.

Đức Thế Tôn an cư suốt ba tháng hạ, nhờ gia đình ấy hộ độ. Mãn mùa an cư, hai

ông bà chứng đạt A La Hán Quả và viên tịch Vô Dư. Thiện tín làm ma chay cúng

dường hai ông bà trọng thể, cho xe tang rước thi hài hai ông bà đem ra chỗ hỏa táng.

Đức Thế Tôn cũng dắt 500 Tỳ khưu tùy tùng đi đến lò thiêu xác. Đại chúng nghe tin

cha mẹ của Đức Phật đã Níp Bàn, rủ nhau ra khỏi thành, đi theo đưa đám. Đức Thế

Tôn đứng trong một nhà mồ, gần nơi hỏa táng, nhiều người đến đảnh lễ Ngài xong

rồi, tỏ lời phân ưu cùng Ngài rằng:

- Bạch Ngài! Xin Ngài đừng buồn vì cha mẹ mình đã khuất bóng.

Thay vì phản đối họ rằng: “Chớ nên nói như thế”, Đức Thế Tôn quán xét duyên

lành của hội chúng, rồi Ngài thuyết lên pháp thoại hợp cơ tánh căn duyên trong hoàn

cảnh đặc biệt nầy.

Đức Thế Tôn thuyết lên Lão Kinh (Jarāsutta). Cuối thời Pháp có tám muôn ngàn

chúng sanh chứng đắc Pháp Nhãn. Chư Tỳ khưu không biết ông bà Bà la môn đã viên

tịch, nên bạch hỏi Phật:

- Bạch Ngài! Hai ông bà sẽ thọ sanh về nơi nào vậy?

- Nầy các Tỳ khưu! Những bậc Tịnh giả Vô Học như thế không còn cảnh giới tái

sanh. Những bậc như thế chỉ có Vô Dư Níp Bàn, là Bất diệt (Accutam) là Bất Tử

(Amatam).

Rồi Ngài thuyết lên kệ ngôn rằng:

“Ahiṃsakā ye munayo, Niccaṃ kāyena saṃvutā. Te yanti accutaṃ ṭhānaṃ, Yattha gantvā na socare”.

"Bậc hiền không hại ai,

Thân thường được chế ngự,

Đạt được cảnh bất tử,

Đến đây, không ưu sầu."


Bài đăng gần đây

Xem tất cả

Comentarios


bottom of page