249. “Dadāti ve yathāsaddhaṃ Yathāpasādanaṃ jano Tattha yo yathāsaddhaṃ Paresaṃ pānabhojane Na so divā vā rattiṃ vā Samādhiṃ adhigacchati”. | 249. Do tín tâm, hỷ tâm Loài người mới bố thí. Ở đây ai bất mãn Người khác được ăn uống, Người ấy ngày hoặc đêm, Không đạt được tâm định ? |
250. “Yassa cetaṃ sammucchinnaṃ Mūlaghacchaṃ samūhātaṃ Save diva vārattiṃ vā Samādhiṃ adhigacchati”. | 250. Ai cắt được, phá được, Tận gốc nhổ tâm ấy. Người ấy ngày hoặc đêm, Đạt được tâm thiền định. |
Pháp Cú nầy Đức Bổn Sư thuyết lên khi Ngài ngự tại Jetavana, đề cập đến Tỳ khưu Tissa.
Người ta nói rằng: Vị Sa môn trẻ nầy thường hay chê sự cúng dường, bố thí của
Trưởng giả Anāthapiṇḍika, của bà Visākhā, chê luôn cả sự bố thí của 50 triệu Thánh
Thinh Văn, cho đến cuộc Vô song thí của Đức vua Pasenadi cũng bị vị ấy chê tuốt.
Vào trong Phước xá, nếu được vật nguội thì vị ấy chê là vật thực quá nguội, được vật
thực nóng thì lại chê là đồ nóng. Thí chủ đặt bát thì bị vị ấy qưở rằng: “Sao lại đặt bát
ít thế?”. Còn nếu dâng nhiều thì bị nói rằng: “Có lẻ trong nhà nầy không còn chỗ cất
giữ vật thực sao? Nên họ không biết cúng dường vừa phải để Tỳ khưu vừa đủ nuôi
mạng thôi, lại dâng cúng quá nhiều cháo cơm như thế nầy, thật là phí phạm quá”.
Tuy nhiên, khi nói đến quyến thuộc của mình, nhà sư lại đổi giọng khen ngợi
rằng: “Ồ! Ngôi nhà của quyến thuộc chúng tôi thật là quán nước, tha hồ chư khách
Tăng từ bốn phương tựu đến”.
Thật sự thì, vị sư trẻ nầy vốn là con của người gác cổng thành, nhân đi chung với
nhóm thợ mộc, phiêu du khắp nơi, đến thành Sāvatthī, rồi y xin xuất gia.
Khi chư vị Tỳ khưu thấy vị sư trẻ nầy cứ chê sự bố thí cúng dường của người
khác thì nghĩ rằng: “Chúng ta hãy tìm hiểu sự thật về ông sư nầy đi”. Chư khách
Tăng hỏi vị ấy rằng:
- Nầy hiền giả! Quyến thuộc của hiền giả ở đâu?
- Ở nơi làng ấy, nơi trú xứ ấy.
Chư vị Tỳ khưu phái vài vị Tỳ khưu trẻ đi dò hỏi. Các vị đi đến làng ấy, được
thôn dân cung thỉnh vào ngồi trong ký túc xá. Chờ đợi họ cúng dường vật thực xong,
các vị hỏi rằng:
- Có vị sư trẻ tên Tissa, gốc người ở làng nầy đi xuất gia. Ở đây, ai là thân nhân
của vị ấy?
Những người dân nghĩ rằng: “Làng nầy không có ai là con nhà vọng tộc đi xuất
gia cả, vì sao các vị nầy lại hỏi như thế?”.
Họ bạch rằng:
- Bạch Ngài! Chúng tôi có nghe rằng một cậu con trai của người giữ cổng thành,
sau khi phiêu lưu cùng với nhóm thợ mộc đã xuất gia rồi. Có lẽ Ngài hỏi về vị ấy phải
chăng?
Các vị Tỳ khưu biết được vị Sa môn trẻ Tissa kia không có quyến thuộc giàu
sang, thế lực ở tại đó, nên trở về thành Sāvatthī thuật lại với Tăng chúng rằng:
- Bạch các Ngài! Thầy Tissa không phải nói thật, đã bày chuyện vô cớ, nói nhảm
nhí mà thôi.
Chư Tăng mang câu chuyện bạch trình lên Đức Thế Tôn, Ngài phán dạy rằng:
- Nầy chư Tỳ khưu! Chẳng phải bây giờ Tissa mới khoe khoang khoác lác. Thưở
xưa, y cũng đã từng như thế rồi.
Chư Tỳ khưu thỉnh cầu Đức Bổn Sư thuyết giảng Bổn sanh, Ngài thuật lại tiền
tích với kệ ngôn rằng:
“Bahumpi so vikattheyya aññaṃ janapadaṃ gato
Anvāgantvāna dūseyya bhuñja bhoge kaṭāhakāti”.
“Khoe khoang khoác lác lung tung
Đã qua xứ lạ ai lùng mà lo
Hại thay, bị kẻ theo dò…
Kaṭāhaka, ăn no đi nò!...”
Sau khi thuật xong Bổn sanh Kaṭāhaka, Đức Bổn Sư dạy rằng:
- Nầy các Tỳ khưu! Nếu vị nào cảm thấy hổ thẹn vì được người dâng cúng
ít hoặc nhiều, thô đạm hoặc thanh quý, hoặc không được cúng dường sau khi
mình đã dâng phần mình cho những người khác, thì thiền định (ghānaṃ) hoặc
Minh sát (Vipassanā) hoặc Đạo quả (Maggaphalāni) không phát sanh đến vị ấy.
Nói rồi Ngài thuyết lên kệ ngôn rằng:
249. “Dadāti ve yathāsaddhaṃYathāpasādanaṃ jano Tattha yo yathāsaddhaṃParesaṃ pānabhojaneNa so divā vā rattiṃ vā Samādhiṃ adhigacchati”. | 249. Do tín tâm, hỷ tâm Loài người mới bố thí. Ở đây ai bất mãn Người khác được ăn uống, Người ấy ngày hoặc đêm, Không đạt được tâm định ? |
250. “Yassa cetaṃ sammucchinnaṃ Mūlaghacchaṃ samūhātaṃ Save diva vārattiṃ vā Samādhiṃ adhigacchati”. | 250. Ai cắt được, phá được, Tận gốc nhổ tâm ấy. Người ấy ngày hoặc đêm, Đạt được tâm thiền định. |
Kommentarer