“Appamādarato bhikkhu, Pamāde bhayadasi vā; Abhabbo parihāya, Nibbānasseva santiketi”. | Vui thích không phóng dật, Tỷ kheo sợ phóng dật, Không thể bị thối đọa, Nhất định gần Niết Bàn. |
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư thuyết ra khi Ngài an ngự tại Jetavana (Kỳ Viên)
đề cập đến Đại đức Tissa ở thị xã (Nigamatissatthera).
Quả vậy, cách thành Sāvatthī không bao xa, có một công tử (Kulaputto) sanh
trưởng trong một thị xã nọ. Về sau, xuất gia hành đạo trong giáo pháp của Đức Bổn
Sư, trước tu Sa di, sau thọ Cụ túc giới, tu lên Tỳ khưu vì trùng tên với Trưởng lão
Tissa, nên vị nầy được chư Tăng gọi là Đại đức Tissa thị xã cho dễ phân biệt.
Đại đức tỏ ra là một vị Tỳ khưu thiểu dục, tri túc, độc cư, cần mẫn. Đại đức chỉ
đi khất thực trong vòng phường thị xã là sinh quán của Đại đức mà thôi, chớ không đi
đâu xa. Cho đến những cuộc lễ Trai Tăng do các đại thí chủ, nhất là ông
Anāthapiṇḍika tổ chức, hoặc cuộc cúng dường vô tiền khoáng hậu của Quốc vương
Pasenadi xứ Kosala thực hiện trong thành Sāvatthī, Đại đức cũng không đến dự. Thấy
vắng mặt Đại đức trong các cuộc Tăng hội, Chư Tỳ khưu bảo nhau rằng:
- Đại đức Tissa thị xã này hằng ngày cứ sống thân cận với quyến thuộc không
rời ra đi đâu hết, cho tới các cuộc đại lễ Trai Tăng do các thí chủ nhất là ông
Anathapiṇḍika tổ chức, hoặc cuộc cúng dường của Quốc vương Pasenadi xứ Kosala
thực hiện mà ông cũng không đến dự.
Và chuyện nầy được chư Tăng bạch trình với Đức Bổn Sư. Ngài cho gọi Đại đức
Tissa thị xã đến và phán hỏi:
- Nầy Tỳ khưu! Nghe nói ông như thế, có thật vậy chăng?
- Bạch Ngài! Con không có lê la thân mật với quyến thuộc. Con giữ hạnh độc cư,
đi thọ bát được món chi thì dùng món ấy, ngon hay dỡ chi cũng được. Dầu cho có
nghe Trai Tăng ở đâu, con cũng không đi dự. Thật tình con không có lân la thân cận
với các quyến thuộc, bạch Ngài.
Sau khi nghe rõ hạnh bình sanh của Đại đức Tissa thị xã, Đức Bổn Sư cất tiếng
tán dương rằng:
- Lành thay! Lành thay! Nầy chư Tỳ khưu, chính nhờ thọ giáo với bậc Đạo sư
như Ta, mà ông trở nên người thiểu dục, nết hạnh thiểu dục nầy quả thật là một đức
tánh cố hữu, một tập quán di truyền của Ta tự thời xưa.
Nghe vậy, chư Tăng thỉnh cầu Đức Thế Tôn thuật lại Bổn sanh. Ngài bắt đầu kể
rằng:
Xưa kia có vô số ngàn con chim Anh Võ (Suvakā), đồng cư ngự trong rừng
Udumbara (cây trái vải), trên bờ sông Hằng thuộc miền núi Hy Mã Lạp Sơn, bây giờ
có con chim oanh vũ chúa giữ hạnh tri túc hết sức cao thượng.
Trên cây vải, chỗ nó ngụ trái đã hết sạch, chỉ còn sót lại ít nụ, lá hay vỏ cây mà
thôi. Nhưng nó cũng bằng lòng với chút ít ấy, ăn lấy chút đỉnh vật thực nầy rồi uống
nước sống, chớ không chịu đi nơi khác.
Do oai lực tri túc của chim Anh vũ chúa. Thiên cung Đế Thích bị rung chuyển,
Đế Thích tìm hiểu nguyên nhân, thấy là do hạnh tri túc của chim Anh Vũ chúa, để thử
lòng chim Anh Vũ, Ngài liền khiến cho cây vải trở nên héo khô.
Cây vải khô héo, mục gãy lần hết những nhánh lẫn thân cây, chỉ còn trơ lại gốc
cây với nhiều lỗ bọng, gió thổi mạnh luồn qua nghe ù ù, làm cho mạc cây bay ra.
Chim Anh Vũ lại ăn mạc cây và uống nước sông mà sống qua ngày chớ không đi nơi
khác. Nó đậu mãi trên gốc cây Udumbara, bất kể đêm sương ngày nắng gió cuộn bụi.
Sau khi biết rõ đức hạnh cao siêu của chim Anh Vũ về hạnh thiểu dục, Đức Đế
Thích nghĩ thầm: “Ta sẽ kết tình bằng hữu với chim nầy và ban ân huệ khiến cho cây
vải trổ trái liên miên”. Đức Đế Thích hóa thành chim Thiên Nga chúa, cùng nàng
Sujātā là công chúa A Tu La, đi đến gần khu rừng Udumbara, đậu trên một cây khác
gần đó của chim Anh Vũ, gợi chuyện làm quen bằng kệ ngôn rằng:
“Santi rukkhā haritapattā,
Dumāneka phalā bahū;
Kasmā nu sukkhe kolāpe,
Suvassa nirato manoti”.
“Có những cây xanh lá,
Vô số cây nhiều quả.
Xá chỉ cội mục khô,
Mà chúa két mến lạ”.
Cuộc đối thoại giữa Anh Vũ chúa và Thiên Nga chúa còn dài, trong Bổn sanh
thứ mười đã ghi chép rõ chi tiết, nên đây chỉ tóm tắt.
Anh Vũ chúa đáp: “Ta đã từng ăn quả cây nầy rất nhiều năm rồi, cho nên bây giờ
dầu cho hết trái, ta cũng vẫn thương mến nó như thưở trước”.
Liền đó, Thiên Vương Đế Thích liền khiến cho cây vải mục khô xanh tươi trở lại
và trổ cây đầy hoa trái.
Dứt tích bổn sanh, Đức Bổn Sư giải rằng: “Đức Đế Thích xưa kia nay là Ānanda,
còn chim Anh Vũ chúa chính là Đấng Như Lai”. Và Đức Thầy kết luận rằng:
- Nầy các Tỳ khưu! Nết hạnh thiểu dục như thế, là tập quán cố hữu di truyền của
Ta, cho nên đối với Ta không có chi lạ, khi con trai của Ta là Tissa thị xã cũng giữ
hạnh thiểu dục, cho xứng mang danh là Tỳ khưu. Quả thật vậy, Tỳ khưu nào hành
được như thế thì không thể nào xa lìa các Đạo quả, chắc chắn sẽ chứng ngộ Níp Bàn
chẳng sai.
Đức Bổn Sư đọc tiếp kệ ngôn rằng:
“Appamādarato bhikkhu,
Pamāde bhayadasi vā;
Abhabbo parihānāya,
Nibbānasseva santiketi”.
Vui thích không phóng dật, Tỷ kheo sợ phóng dật, Không thể bị thối đọa, Nhất định gần Niết Bàn.
댓글