top of page
Ảnh của tác giảKinh Pháp Cú

Tích Truyện Kinh Pháp Cú 334,335,336,337 - CON CÁ KAPILA

Đã cập nhật: 13 thg 7



334. “Manujassa pamattacārino Taṇhā vaḍḍhati māluvā viya So plavati hurāhuraṃ Phalaṃ icchaṃ’va vanasmiṃ vānaro”.

"Người sống đời phóng dật, Ái tăng như dây leo, Nhảy đời này đời khác, Như vượn tham quả rừng."

335. “Yaṃ esā sahatī jammī Taṇhā loke visattikā Sokā tassa pavaḍḍhati Abhivaṭṭhaṃ’va bīranaṃ”.

"Ai sống trong đời này, Bị ái dục buộc ràng, Sầu khổ sẽ tăng trưởng, Như cỏ bi gặp mưa."

336. “Yo c’etaṃ sahātī jammiṃ Taṇhā loke duraccayaṃ Sokā tamhā papatanti Udabindu’va pokkharā vo”.

"Ai sống trong đời này, Ái dục được hàng phục, Sầu rơi khỏi người ấy, Như giọt nước lá sen."

337. “Taṃ vo vadāmi bhaddaṃ vo Tāvant’ettha samāgatā Taṇhāya mūlaṃ khanatha Usīrattho’va bīraṇaṃMāvo nalaṃ va soto’va Māro bhañji punapppunaṃ”.

"Ðây điều lành Ta dạy, Các người tụ họp đây, Hãy nhổ tận gốc ái, Như thổ gốc cỏ Bi, Chớ để ma phái hoại, Như dòng nước cỏ lau."


Kệ ngôn nầy Đức Đạo Sư thuyết ra khi Ngài ngự tại thành Sāvatthī, nơi Tịnh xá Jetavana, đề cập đến con cá Kapila.


Tương truyền rằng: Thời quá khứ, khi Giáo Pháp của Đức Chánh Đẳng Giác có

hồng danh là Kassapa đang rực sáng trong thế gian. Khi Ngài Níp Bàn rồi, bấy giờ có

hai anh em của một thiện gia tử, xuất gia với chư Tỳ khưu. Người anh có tên là

Sodhana, người em tên là Kapila, mẫu thân là Sodhanā cùng với cô em gái tên Tāpanā

cũng xuất gia làm Tỳ khưu ni trong Ni chúng.


Sau khi xuất gia, hai thiện gia tử ấy đã hành tròn bổn phận đối với Giáo Thọ Sư

cùng với Tế Độ Sư. Một hôm, hai vị bạch hỏi thầy rằng:


- Bạch Ngài! Trong Giáo pháp nầy có bao nhiêu phận sự phải hành?

- Nầy Hiền giả! Có hai phận sự cần phải hành là: Pháp Học và Pháp Hành.


Tỳ khưu Sodhana suy nghĩ: “Ta sẽ tu tập Pháp hành”. Sau khi ở với Tế Độ Sư

tròn năm hạ, Tỳ khưu Sodhana học đề mục nghiệp xứ cho thông suốt để đắc chứng A

La Hán, mới đi vào rừng chuyên cần hành Sa môn Pháp và chứng đắc Vô Lậu Quả.


Riêng Tỳ khưu Kapila suy nghĩ rằng: “Bây giờ ta còn trẻ, khi đến tuổi già rồi thì

sẽ hành pháp Sa môn cũng chưa phải là muộn”.


Vị ấy bắt đầu học Tam Tạng Pháp Bảo, chẳng bao lâu vị ấy thông Tam Tạng, có

nhiều tùy chúng vây quanh và lợi đắc phát sanh đến cho vị ấy. Do nhân lợi đắc dồi

dào Tỳ khưu Kapila phát sanh sự ngã mạn, cho rằng: “Ta là bậc đại trí”. Y đã dùng

biện tài của mình nói lên những điều sai lệch với chân lý khi tranh luận cùng người

khác, những điều hợp pháp y cho rằng “không hợp pháp”, những điều có tội y cho

rằng “vô tội”. Trái lại điều vô tội y chi rằng có tội, điều không hợp pháp y cho rằng là

hợp pháp. Chư Tỳ khưu có Giới hạnh khuyên nhủ y rằng:


- Nầy Hiền giả Kapila, Hiền giả chớ nên nói thế.


Chư Tỳ khưu giảng giải luật đến y, y phẫn nộ đối với chư Tỳ khưu rằng:


- Các vị mà biết cái gì? Các vị ví như người nắm tay trắng…


Thấy khuyên nhủ Tỳ khưu Kapila không có hiệu quả, chư vị ấy đem sự việc ấy

bạch lên Trưởng Lão Sodhana. Trưởng lão khuyên ngăn y rằng:


- Nầy Hiền giả Kapila! Sự thực hành chân chánh của Chư Tỳ khưu được xem là

tuổi thọ của Giáo Pháp, Hiền giả cũng là vị Tỳ khưu, Hiền giả chớ nên bỏ việc thực

hành chân chánh Sa môn Pháp.


Rồi Trưởng lão Sodhana đã khuyên giải những điều hợp lý về Pháp, về Luật…

Nhưng Tỳ khưu Kapila vẫn để ngoài tai những lời khuyên nhủ ấy, y không nhận lấy

lời khuyên nhủ của anh mình.


Trưởng lão Sodhana đã khuyến giáo Tỳ khưu Kapila đến hai, ba lần mà kết quả

chẳng được chi cả, Ngài biết rằng: “Tỳ khưu Kapila là người khó dạy, y đã chẳng

vâng lời ta”. Ngài bảo với Tỳ khưu Kapila rằng:


- Nầy Hiền giả Kapila! Nếu sự việc là như thế, Hiền giả sẽ nhận lãnh quả nghiệp

của mình vậy.


Và Trưởng lão bỏ đi. Kể từ đó những vị Tỳ khưu có Giới hạnh thanh tịnh đã lìa

xa Tỳ khưu Kapila. Tỳ khưu Kapila có hành vi bất thiện như thế nên thường thân cận

với những người bất thiện.


Một hôm, vào ngày Uposatha, Tỳ khưu Kapila đi đến nơi hội họp của chư Tỳ

khưu với ý niệm rằng: “Ta sẽ là người Tụng Giới Bổn”. Y liền cầm quạt đi đến ngồi

trên Pháp tòa trong Giảng Pháp đường, hỏi rằng:


- Nầy chư Hiền! Chư Tỳ khưu hội họp nơi đây tụng đọc Giới Bổn phải chăng?


Chư Tỳ khưu im lặng, tự ngã của kapila bị xúc phạm, y suy nghĩ: “Cần gì ta

phải vấn đáp với chư Tỳ khưu nầy nhỉ?”.


Y bèn nói rằng:



- Nầy chư Hiền, Pháp chẳng có đâu, Luật cũng chẳng có đâu, lợi ích chi với Giới

Bổn mà các vị nghe hay không nghe chứ.


Nói rồi, y rời bỏ Pháp tòa đi khỏi Giảng đường. Tỳ khưu Kapila đã làm Giáo

Pháp của Đức Thế Tôn Kassapa tổn giảm như thế. Và Trưởng lão Sodhana đã Vô Dư

Níp Bàn ngay trong ngày ấy.


Khi mãn tuổi thọ, Tỳ khưu Kapila rơi vào A Tỳ địa ngục, mẹ và em gái của y là

Sodhanā và Tāpanā thưở sanh tiền đã xu hướng với Tỳ khưu Kapila, đã mắng chửi

chư Tỳ khưu nào khuyên giải Kapila. Do đó, cả hai cùng chịu chung số phận như Tỳ

khưu Kapila.


Vào thời đó, có 500 thanh niên tụ hội với nhau thành một đảng cướp, bọn cướp

đã cướp giật dân chúng, sách nhiễu đến chúng dân. Bọn chúng sanh sống bằng nghề

nghiệp phi chân chánh như thế. Một hôm, chúng dân cùng quan binh truy nã bọn

chúng, cả 500 tên cướp chạy vào rừng trốn, nhưng quân binh cùng chúng dân theo

rượt quá gắt, bọn chúng chẳng có nơi nào ẩn thân được. Trên đường chạy vào rừng

trốn, 500 tên cướp trông thấy vị Sa môn sống hạnh ẩn lâm đang ngồi thiền tư. Chúng

vui mừng như bắt gặp tài sản quý, cả 500 tên cướp đến đảnh lễ vị ẩn lâm Tỳ khưu,

bạch rằng:


- Bạch Ngài! Xin Ngài hãy là nơi nương chờ của chúng con đi.

- Nầy các người, chẳng có nơi nào nương nhờ an ổn cho bằng Giới. Vậy các

ngươi hãy trọ trì giới đi.

- Thưa vâng, Bạch Ngài.

Bọn cướp đã thọ trì ngũ giới, thế rồi vị Tỳ khưu khuyên dạy bọn chúng rằng:

- Bây giờ các ngươi là người có giới rồi, dù có thiệt hại đến mạng sống đi nữa,

các ngươi cũng không được lìa bỏ giới hạnh của mình, một ý ác cũng không nên vọng

đến.

- Thưa vâng, Bạch Ngài.


Khi ấy, dân chúng cùng quan quân kéo đến bắt được bọn cướp tại nơi ấy, bọn

cướp không chống trả lại và bọ sát hại hết. Và cả 500 tên cướp thọ sanh vào Thiên

giới, tên chúa đảng trở thành vị Thiên tử trưởng của nhóm Thiên tử ấy.


Trải qua tuổi thọ một vị Phật, 500 Thiên tử ấy tái sanh vào nhân giới, vào thai

bào của 500 gia tộc chuyên nghề đánh cá ven sông Aciravatī gần kinh thành Sāvatthī.

Vị Thiên tử trưởng nhóm nầy cũng là người cầm đầu 500 thanh niên chài lưới ấy. Cả

500 thanh niên đã hạ sanh cùng một ngày như vậy.


Được biết rằng: Vào ngày hạ sanh đứa bé Trưởng đoàn, gia tộc trưởng của nhóm

dân chài cho người đi tìm “Có đứa bé nào hạ sanh cùng ngày trong làng nầy

chăng?”. Được biết có được 500 đứa bé trai cùng sanh ra trong ngày, nên gia tộc

trưởng nhóm dân chài cho tiền trợ cấp nuôi dưỡng của năm trăm hài nhi ấy, với ý

niệm rằng: “Những hài nhi nầy sẽ là bạn của con ta”.


Những hài nhi ấy sinh hoạt chung với nhau từ thưở bé cho đến lớn, và con của

người Trưởng tộc dân chài có uy quyền hơn cả.



Tỳ khưu Kapila bị thiêu đốt trong lửa địa ngục A Tỳ hết một đời vị Phật, quả

nghiệp còn dư sót, vào thời Đức Phật Gotama y tái sanh làm con cá vàng ở sông

Aciravatī, con cá có làn da vàng óng ánh, nhưng khi nó mở miệng ra thì phát sanh mùi

hôi thối nồng nặc, đây là kết quả dị thục của lời phi ngữ đã hủy báng Giáo Pháp chư

Phật. Một hôm, 500 thanh niên bàn luận cùng nhau rằng:


- Chúng ta ra sông bắt cá đi.


Họ mang lưới đánh cá dọc theo sông Aciravatī. Con cá vàng đã mắc lưới của

500 chàng thanh niên. Khi kéo lưới lên, thấy con cá vàng xinh đẹp óng ánh, 500 thanh

niên reo lên rằng:


- Ồ! Lần đầu tiên chúng ta bắt được con cá kì lạ như vầy, lần nầy chúng ta sẽ

mang đến dâng Đức vua, chắc chắn Ngài sẽ ban thưởng chúng ta trọng hậu.


Những chàng thanh niên mang con cá lên thuyền, bơi thuyền đến Hoàng cung,

dâng lên Đức vua con cá vàng xinh đẹp. Đức vua Pasenadi vị thủ lãnh xứ Kosala phán

hỏi rằng:


- Cái chi thế?

- Tâu Bệ hạ! Đây là con cá kỳ lạ mà chúng thần vừa bắt được trên sông

Aciravatī.


Trông thấy con cá như thế, Ngài suy nghĩ rằng: “Việc nầy ngoài Bậc Đạo Sư ra

hẳn không ai hiểu được tiền nghiệp con cá vàng nầy đâu. Vậy ta hãy mang đến

Jetavana bạch hỏi Đức Thế Tôn vấn đề nầy”.


Ngài truyền lịnh mang con cá vàng đến Tịnh xá Jetavana, khi con cá mở miệng

ra ngáp, một mùi thúi nồng nặc bay khắp kinh thành Sāvatthī. Đức vua bạch hỏi Đức

Thế Tôn rằng:


- Bạch Thế Tôn! Do nhân chi mà con cá nầy có màu da vàng óng ánh. Và do

nhân chi mà miệng nó thối nồng nặc như thế.


- Nầy Đại vương! Con cá nầy chính là vị Tỳ khưu Kapila, y là bậc đa văn, có

nhiều tùy tùng trong thời Giáo Pháp của Đức Thế Tôn Kassapa, do bị tham đắm lợi

lộc chửi mắng chư Tỳ khưu có giới hạnh, vì những vị nầy đã khuyên nhủ y. Y lại làm

tổn giảm Giáo Pháp của Đấng Kassapa. Do nghiệp ác ấy, y phải rơi vào địa ngục A

Tỳ trọn cả một đời vị Chánh Đẳng Giác, khi thoát khỏi địa ngục, quả nghiệp còn dư

sót, Tỳ khưu Kapila họ sanh làm con cá vàng ở sông Aviravatī. Thưở trước do nhờ y

thuyết giảng Phật ngôn, tán dương ân đức Phật và thân hạnh của y trong sạch một thời

gian, nên có được màu da vàng ròng. Do mắng chửi chư Tỳ khưu và làm tổn giảm

Giáo Pháp của Đức Thế Tôn nên miệng có mùi thối. Nầy Đại Vương, Như Lai sẽ

khiến con cá nầy nói lên sự kiện ấy.


- Bạch Thế Tôn! Xin Ngài hãy làm con cá nói lên đi.


Đức Thế Tôn phán hỏi con cá vàng rằng:


- Nầy cá Aciravatī! Ngươi thưở trước tên là chi?

- Bạch Thế Tôn! Con là Tỳ khưu Kapila.



- Ngươi từ đâu đến?

- Con từ địa ngục A Tỳ thọ sanh lên đây.

- Nầy Kapila! Anh trai của ngươi đâu rồi?

- Bạch Thế Tôn! Anh con là Trưởng lão Sodhana đã Níp Bàn rồi.

- Còn nàng Sodhanā, mẹ ngươi hiện ở đâu?

- Đã rơi vào địa ngục A Tỳ rồi, bạch thế Tôn.

- Còn nàng Tāpanā, em gái của ngươi thì sao rồi?

- Bạch Thế Tôn, cũng đang rơi vào địa ngục A Tỳ.

- Nầy Kapila, giờ đây ngươi sẽ phải đi về đâu?

- Bạch Thế Tôn! Con sẽ rơi và địa ngục lại thôi.


Cá Kapila bị nhiệt não khi nhớ lại nghiệp ác thưở trước, nó đập đầu vào thuyền

và mệnh chung, ngay khi ấy nó lại tái sanh vào địa ngục A Tỳ một lần nữa. Đại chúng

kinh cảm trước sự việc ấy, lông tóc dựng ngược.


Đức Thế Tôn khi ấy dùng Phật trí quán xét hội chúng, Ngài thuyết lên Pháp

thoại thích ứng với căn cơ hội chúng, Ngài thuyết bài kinh Kapila trong Suttanipāta

rằng:


- Bậc trí đã nói lên sự thực hành Pháp và sự thực hành Phạm hạnh, đó là: Viên

ngọc quý nhất.


Rồi Ngài thuyết lên kệ ngôn rằng:


334. “Manujassa pamattacārino Taṇhā vaḍḍhati māluvā viya So plavati hurāhuraṃ Phalaṃ icchaṃ’va vanasmiṃ vānaro”.

 "Người sống đời phóng dật, Ái tăng như dây leo, Nhảy đời này đời khác, Như vượn tham quả rừng."

335. “Yaṃ esā sahatī jammīTaṇhā loke visattikāSokā tassa pavaḍḍhatiAbhivaṭṭhaṃ’va bīranaṃ”.

"Ai sống trong đời này, Bị ái dục buộc ràng, Sầu khổ sẽ tăng trưởng, Như cỏ bi gặp mưa."

336. “Yo c’etaṃ sahātī jammiṃTaṇhā loke duraccayaṃSokā tamhā papatantiUdabindu’va pokkharā vo”.

"Ai sống trong đời này, Ái dục được hàng phục, Sầu rơi khỏi người ấy, Như giọt nước lá sen."

337. “Taṃ vo vadāmi bhaddaṃ vo Tāvant’ettha samāgatā Taṇhāya mūlaṃ khanatha Usīrattho’va bīraṇaṃ Māvo nalaṃ va soto’va Māro bhañji punapppunaṃ”.

"Ðây điều lành Ta dạy, Các người tụ họp đây, Hãy nhổ tận gốc ái, Như thổ gốc cỏ Bi, Chớ để ma phái hoại, Như dòng nước cỏ lau."



150 lượt xem0 bình luận

Bài đăng gần đây

Xem tất cả

Comments


bottom of page