338. “Yathā’pi mūle anupaddave daḷhe Chinno’pi rukkho punareva rūhati Evaṃ pi taṇhānusaye anūhate Nibbattatī dukkhaṃ idaṃ punappunaṃ”. | "Như cây bị chặt đốn, Gốc chưa hại vẫn bền, Ái tùy miên chưa nhổ, Khổ này vẫn sanh hoài." |
339. “Yassa chattiṃsati sotā Manāpassavanā bhusā Vāhā vahanti duddiṭṭhiṃ Saṅkappā rāganissitā”. | "Ba mươi sáu dòng ái, Trôi người đến khả ái, Các tư tưởng tham ái, Cuốn trôi người tà kiến." |
340. “Savanti sabbadhī sotā Latā ubbhijja tiṭṭhati Tañ ca disvā lataṃ jātaṃ Mūlaṃ paññāya chindatha”. | "Dòng ái dục chảy khắp, Như dây leo mọc tràn, Thấy dây leo vừa sanh, Với tuệ, hãy đoạn gốc." |
341. “Saritāni sinehitāni ca Somanassāni bhavanti jantuno Te sātasitā sukhesino Te ve jātijarūpagā narā”. | "Người đời nhớ ái dục, Ưa thích các hỷ lạc, Tuy mong cầu an lạc, Họ vẫn phải sanh, già." |
342. “Tasiṇāya purakkhatā pajā Parisappanti saso’va bādhito Saññojanasaṅgasatā Dukkhaṃ upenti punappunaṃ cirāya”. | "Người bị ái buộc ràng, Vùng vẫy và hoảng sợ, Như thỏ bị sa lưới, Chúng sanh ái trói buộc, Chịu khổ đau dài dài." |
343. “Tasiṇāya purakkhatā pajā Parisappanti saso’va bādhito Tasmā tasiṇaṃ vinodaye Bhikkhu ākaṇhī virāgam attano”. | "Người bị ái buộc ràng, Vùng vẫy và hoảng sợ, Như thỏ bị sa lưới, Do vậy vị Tỳ-kheo, Mong cầu mình ly tham, Nên nhiếp phục ái dục. |
Đề cập đến con heo nái tơ.
Tương truyền rằng: Một hôm, Đức Thế Tôn đi vào thành Rājagaha để trì bình,
Ngài nhìn thấy con heo nái tơ, Ngài mỉm cười rồi bước sang vệ đường. Trưởng lão
Ānanda trông thấy Đức Thế Tôn mỉm cười liền bach hỏi rằng:
- Bạch Thế Tôn! Do nhân chi duyên chi Ngài lại mỉm cười?
- Nầy Ānanda! Ngươi có trông thấy con heo nái tơ ấy chăng?
- Thưa vâng, Bạch Thế Tôn.
- Nầy Ānanda! Con heo nái tơ ấy thưở quá khứ là con gà mái, ở gần ngôi trai
đường, nhằm thời Đức Phật Kakusandha, Giáo Pháp của Ngài hiển chiếu trong thế
gian. Con gà mái ấy được nghe vị Tỳ khưu trì tụng về Thiền Quán, nó nghe kinh với
ấn tượng đây là Pháp Bảo. Nhờ hạnh nghiệp ấy, sau khi mệnh chung, con gà mái được
sanh làm công chúa tên là Ubbarī. Một hôm, nàng công chúa Ubbāri đi vào nhà cầu,
nhìn thấy những con dòi trong hầm cầu, nàng quán tưởng về thể trượt, chứng đắc
được Sơ thiền. Sau khi hết tuổi thọ, nàng tái sanh về Phạm Thiên Giới, từ Phạm Thiên
Giới nàng tái sanh về nhân giới, và do tư vị nên nàng phải sanh làm con heo nái tơ.
Do vậy ta mới mỉm cười.
Trưởng lão Ānanda cùng hội chúng Tỳ khưu của Ngài, nghe câu chuyện như thế,
tâm kinh cảm vô cùng, chán nản thế gian bẩn chật nầy.
Bậc Đạo Sư khiến chư Tỳ khưu phát sanh sự động tâm rồi, từ nơi vệ đường ngài
tuyên thuyết lên kệ ngôn:
338. “Yathā’pi mūle anupaddave daḷhe Chinno’pi rukkho punareva rūhati Evaṃ pi taṇhānusaye anūhate Nibbattatī dukkhaṃ idaṃ punappunaṃ”. | "Như cây bị chặt đốn, Gốc chưa hại vẫn bền, Ái tùy miên chưa nhổ, Khổ này vẫn sanh hoài." |
339. “Yassa chattiṃsati sotā Manāpassavanā bhusā Vāhā vahanti duddiṭṭhiṃ Saṅkappā rāganissitā”. | "Ba mươi sáu dòng ái, Trôi người đến khả ái, Các tư tưởng tham ái, Cuốn trôi người tà kiến." |
340. “Savanti sabbadhī sotā Latā ubbhijja tiṭṭhati Tañ ca disvā lataṃ jātaṃ Mūlaṃ paññāya chindatha”. | "Dòng ái dục chảy khắp, Như dây leo mọc tràn, Thấy dây leo vừa sanh, Với tuệ, hãy đoạn gốc." |
341. “Saritāni sinehitāni ca Somanassāni bhavanti jantuno Te sātasitā sukhesino Te ve jātijarūpagā narā”. | "Người đời nhớ ái dục, Ưa thích các hỷ lạc, Tuy mong cầu an lạc, Họ vẫn phải sanh, già." |
342. “Tasiṇāya purakkhatā pajā Parisappanti saso’va bādhito Saññojanasaṅgasatā Dukkhaṃ upenti punappunaṃ cirāya”. | "Người bị ái buộc ràng, Vùng vẫy và hoảng sợ, Như thỏ bị sa lưới, Chúng sanh ái trói buộc, Chịu khổ đau dài dài." |
343. “Tasiṇāya purakkhatā pajā Parisappanti saso’va bādhito Tasmā tasiṇaṃ vinodaye Bhikkhu ākaṇhī virāgam attano”. | "Người bị ái buộc ràng, Vùng vẫy và hoảng sợ, Như thỏ bị sa lưới, Do vậy vị Tỳ-kheo, Mong cầu mình ly tham, Nên nhiếp phục ái dục. |
Comments