345. “Na taṃ daḷnaṃ bandhanam āhu dhīrā Yadāyasaṃ dārujaṃ babbajañ ca Sārattarattā maṇikuṇḍalesu Puttesu dāresu ca yā apekkhā”. | "Sắt, cây, gai trói buộc, Người trí xem chưa bền, Tham châu báu, trang sức, Tham vọng vợ và con." |
346. “Etaṃ daḷnaṃ bandhanam āhu dhīrā Ohārinaṃ sithilaṃ duppamuñcaṃ Etaṃ pi chetvāna vajanti dhītā Anappekkhino kāmesukhaṃ pahāya”. | Người có trí nói rằng: "Trói buộc này thật bền, Trì kéo xuống, lún xuống, Và thật sự khó thoát. Người trí cắt trừ nó, Bỏ dục lạc không màng". |
Kệ ngôn nầy được Đức Thế Tôn thuyết ra khi Ngài ngự tại Jetavana, đề cập đến khám đường.
Tương truyền rằng: Trong thành Sāvatthī có một bọn cướp, chúng thường xuyên
gây rối loạn trong chúng dân, đã cạy cửa, cướp dọc đường và đã sát hại rất nhiều
người.
Một lần nọ, quan quân truy lùng và bắt được bọn chúng, đem trình lên Đức vua
Kosala, Đức vua truyền giam chúng vào những gông cùm, trói hay xiềng chúng lại
bằng những dây gai cùng xích xiềng vững chắc.
Đúng hôm ấy, có 30 vị Tỳ khưu sau khi đến đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi, các Ngài
đi vào thành khất thực. Các vị ấy đi ngang qua khám đường, trông thấy bọn cướp
đang bị gông cùm khổ sở như thế, sau khi khất thực xong, trở về yết kiến Bậc Đạo Sư
và bạch hỏi rằng:
- Bạch Thế Tôn! Hôm nay chúng con đi khất thực thấy bọn cướp trong khám
đường bị giam cầm bằng gông… thọ khổ vô cùng, chúng không thể bẻ xiềng trốn
được. Bạch Thế Tôn có loại gông cùm nào chắc hơn gông xiềng đó không?
- Nầy các Tỳ khưu, có loại gông cùm xiềng xích chắc chắn hơn, gông xiềng mà
các người thấy đó chẳng đáng gọi là gông xiềng đâu. Gông xiềng phiền não là ái đối
với các động sản, bất động sản như tiền bạc, lúa gạo, kho lẫm, vợ con… là gông xiềng
chắc hơn cả. Loại gông xiềng nầy chắc chắn gấp trăn ngàn lần gông xiềng mà các
ngươi trông thấy. Nhưng bậc trí thưở quá khứ, dù rằng là loại gông xiềng chắc chắn
như vậy vẫn khước từ bỏ đi được, vào Tuyết lãnh Sơn sống đời ẩn sĩ.
Rồi Đức Thế Tôn thuyết lên Bổn sự rằng:
Thưở quá khứ, khi Đức Vua Brahmadatta trị vì kinh đô Bārāṇasī, Bồ Tát hạ sanh
vào một gia đình nông phu nghèo khổ, khi Ngài đến tuổi trưởng thành thì thân phụ
qua đời. Bồ Tát đi làm công nuôi dưỡng mẫu thân.
Thấy con mình quá cực nhọc vì phải chăm lo bên trong lẫn bên ngoài, mẹ Bồ Tát
khuyên Ngài cưới vợ. Tuy không hài lòng lắm, nhưng để cho mẹ vui lòng Bồ Tát
đành ưng thuận, mẹ Bồ Tát cưới một nàng thiếu nữ cho Bồ Tát, thời gian sau, mẹ Bồ
Tát cũng qua đời, riêng vợ Bồ Tát đang mang thai, Ngài không biết vợ đang mang
thai, nên nói rằng:
- Nầy em thân, em hãy đi làm công để nuôi mạng sống đi, còn anh sẽ xuất gia
sống đời ẩn sĩ vậy.
- Nầy anh thân yêu, em nay mang thai chẳng phải vậy sao? Vậy anh hãy đợi khi
em sanh nở xong, anh hãy xuất gia cũng chẳng muộn.
- Nầy em, thôi được.
Khi nàng sanh con xong được khỏe mạnh, Bồ Tát nói với vợ rằng:
- Nầy em, nay em đã sanh nở tốt đẹp rồi. Giờ đây anh sẽ đi xuất gia vậy.
- Nầy anh thân! Xin anh hãy đợi khi nào con mình dứt sữa mẹ, khi ấy anh hãy đi
cũng chẳng muộn gì.
- Thôi được, nầy em.
Khi con nàng vừa dứt được sữa mẹ thì nàng lại mang thai lần nữa. Bồ Tát suy
nghĩ: “Nếu ta nói lên ý của mình, nàng nầy sẽ chẳng chấp nhận đâu. Thế thì ta sẽ
không nói, ta sẽ trốn đi xuất gia”. Bồ Tát yên lặng, vào lúc canh khuya vắng người,
Ngài lẻn trốn ra đi. Trên đường đi, Ngài bị người giữ thành bắt lại, Ngài nói rằng:
- Thưa các Ngài! Tôi còn phải nuôi mẹ tôi nữa, xin các Ngài hãy thả tôi ra đi.
Ngài khơi dậy mối từ tâm của những người gác cổng khiến họ thả Ngài ra. Sau
khi tìm một nơi nghỉ mệt, Ngài tiếp tục hướng về rừng thiêng Tuyết Lãnh, xuất gia
làm ẩn sĩ. Chẳng bao lâu Ngài chứng đắc được Bát thiền và thần thông lực. Ngài cư
ngụ nơi Tuyết Lãnh Sơn, với tâm hân hoan Ngài thốt lên cảm hứng ngữ rằng:
- Vật trói buộc là vợ con, là phiền não chướng, người đời khó dứt bỏ được. Như
vậy ta đã thoát được rồi.
Comments