Pupphāni h’eva pacinantaṃ, Byāsattamanasaṃ naraṃ; Suttaṃ gāmaṃ mahogho’va, Maccu ādāya gacchati”. | Người nhặt các loại hoa, Ý đắm say, tham nhiễm, Bị Thần chết mang đi, Như lụt trôi làng ngủ. |
Kệ Pháp Cú nầy, Đức Bổn Sư đã thuyết ra khi Ngài an ngự tại Jetavana (Kỳ
Viên), đề cập đến vua Viḍūḍabha (Lưu Ly Vương) và đoàn tùy giá viễn chinh, đã chết
trôi vì nạn lụt.
Thưở ấy ở ba nước láng giềng có ba vị Đông cung Thái tử đồng trang lứa với
nhau: Thái tử Pasenadi (Ba Tư Nặc) con vua xứ Kosala (Kiều Tát La), Thái tử Mahāli
con dòng Licchavī xứ Vesāli và Thái tử Bandhula con vua Malla xứ Kusinārā.
Ba Thái tử cùng đi du học văn võ với một vị danh sư lừng danh ở thành
Takkasilā. Ba vị Thái tử gặp gỡ nhau trong một quán trọ ngoại thành. Sau khi hỏi
thăm nhau, biết rõ mục đích cuộc hành trình cùng danh tánh tông tích của nhau, họ
bèn kết nghĩa đệ huynh, và đồng đến xin nhập môn một lượt. Không bao lâu cả ba vị
Thái tử đồng song nầy văn ôn võ luyện đã đến mức tinh thông thuần thục. Đồng cùng
nhau bái tạ Sư trưởng ra đi, ai về xứ nấy.
Trong ba vị, Thái tử Pasenadi được phụ vương đẹp dạ, truyền ngôi cửu ngũ, sau
khi thấy Thái tử biểu diễn tài nghệ cho Ngài duyệt lãm.
Thái tử Mahāli thuộc dòng Licchavī, trong lúc biểu diễn vì dùng lực thái quá,
nên hai mắt bị nổ. Các vua Licchavī đồng thanh bảo rằng:
- Ôi! Thật chẳng may cho sư phó của chúng ta, Ngài đã bị mù cả đôi mắt, không
lẽ chúng ta bỏ ra rơi Ngài, chúng ta phải có bổn phận chăm lo phụng dưỡng Ngài mãn
đời mới trọn đạo thầy trò.
Các vua đồng ý tặng cho Thái tử chức Huỳnh môn quan, quyền trấn một cửa
cổng thành, trị giá một trăm ngàn đồng.
Nhậm chức rồi, Thái tử liền nhận năm trăm Thái tử dòng Licchavī đến xin thọ
giáo để học tập văn võ.
Thái tử Bandhula về nước Kusinārā để biểu diễn nghệ thuật. Các hoàng tộc dòng
Malla đích thân bó tre thành từng bó, mỗi bó là sáu mươi cây, ở giữa mỗi bó lại đệm
một giáo sắt, đoạn treo nó giữa hư không, hỏng mặt đất và thách Thái tử ném cho đứt
rơi xuống.
Thái tử bái Tổ xong rồi, cất mình phóng lên hư không cao tám mươi hắc tay.
Chân vừa rơi chấm đất, Thái tử hươi gươm chém tới lia lịa, đến bó tre cuối cùng, Thái
tử chợt nghe tiếng giáo sắt bị khua chạm lên, bèn hỏi: “cái gì thế?”
Khi biết được trong sáu mươi bó tre có đệm giáo sắt, Thái tử ném gươm khóc
rằng: “Trong tất cả thân bằng quyến thuộc của ta nơi đây, không một ai thương yêu ta
nói cho ta biết trước việc nầy. Nếu ta biết trước thì ta sẽ chém đứt cả sáu mươi bó tre
mà không cho phát lên tiếng khua chạm giáo sắt”.
Thái tử chạy lại thưa với phụ hoàng cùng mẫu hậu rằng:
- Tâu phụ vương và mẫu hậu! Xin hãy tru lục bọn nầy rồi trị quốc mới yên.
- Nầy vương nhi! Chiếu theo luật vua phép nước, không thể làm việc ấy được (vì
quyền trị quốc chỉ có thể truyền tử lưu tôn mà thôi).
Sau khi nài nỉ song thân nhiều phen không kết quả, Thái tử bèn yêu cầu: “Thế thì
phụ hoàng và mẫu hậu cho con sang xứ của bạn con”. Được mẹ cha chuẩn tấu, Thái tử
lên đường đến kinh thành Sāvatthī.
Quốc vương Pasenadi nghe tin Thái tử Bandhula ly hương sang nước mình, liền
ngự giá ra đến rước bạn ở ngoài thành, rất trọng thể. Về triều giao cho bạn giữ chức
Đại Nguyên soái, thống lãnh quân đội hoàng gia. Khi nhận chức rồi, Thái tử phái
người thân tín trở về Kusinārā rước cả phụ vương và mẫu hậu về cùng ở chung với
mình nơi thành Sāvatthī.
Một hôm, Quốc vương Pasenadi nhìn xuống đường phố khi Ngài đứng trên lầu
ngự của mình thấy chư Tỳ khưu lũ lượt vào thành thọ bát nơi nhà các đại thí chủ như
ông Anāthapiṇḍika, Cullānāthapiṇḍika, bà Visākhā, nàng Suppavāsā… Quốc vương
phán hỏi thị thần:
- Chư Đại đức đi đâu vậy?
- Tâu Bệ hạ! Mỗi ngày có độ hai ngàn vị Tỳ khưu đến nhà ông Anāthapiṇḍika để
dự lễ Trai Tăng hoặc thọ thực do thí chủ dâng cúng hợp pháp đến chư Tăng, rút thăm
hoặc là chư Tỳ khưu bịnh chẳng hạn. Nơi nhà của Trưởng giả Cullānāthapiṇḍika có
khoảng năm trăm vị đến thọ thực thường xuyên, nơi nhà của bà Visākhā và bà
Suppavāsā cũng như thế.
Nghe xong, đức vua phát tâm muốn làm người hộ Tăng, bèn ngự giá đến Tịnh xá
Jetavana cung thỉnh Đức Bổn Sư với một ngàn vị Tỳ khưu vào hoàng cung thọ thực.
Quốc vương đích thân đứng ra trông coi việc đặt bát cúng dường trọn cả bảy
ngày liền.
Đến ngày thứ bảy, đức vua đảnh lễ Đức Bổn Sư và yêu cầu:
- Bạch Ngài! Quả nhân xin thỉnh Ngài cùng năm trăm vị Tỳ khưu thường xuyên
thọ thực nơi Hoàng cung.
- Tâu đại vương! Chư Phật không bao giờ thọ thực thường xuyên một nơi, vì còn
nhiều chúng sanh chờ đợi các Ngài ngự đến.
- Nếu vậy xin Ngài phái một vị Tỳ khưu nào đó có thể đến hằng ngày.
Đức Thế Tôn giao phận sự nầy cho Đại đức Ānanda. Trong bảy ngày đầu, khi
chư Tăng đến Quốc vương đích thân ngự ra rước bát, đứng trông nom chỉ bảo cho nội
thần quyến thuộc hộ độ các Ngài rất chu đáo
Đến ngày thứ tám, Quốc vương vì long thể bất an, nên xao lãng phận sự hộ độ
chư Tăng, chư Tăng vào hoàng cung, không ai soạn sẵn chỗ ngồi, thỉnh các Ngài an
tọa và dâng cúng thực phẩm đến tay các Ngài. Chư Tăng bàn với nhau rằng:
- Trong hoàng cung vì thừa hành lịnh của đức vua, nên không ai dám tự chuyên,
đứng ra mời chư Tăng ngồi và phục dịch cả.
Vắng mặt Quốc vương, chắc chúng ta không thể nào đến đây lâu được.
Thế là nhiều vị bỏ ra đi.
Qua những ngày sau, Quốc vương cũng vẫn chểnh mảng như thế, nhiều vị Tỳ
khưu khác lại bỏ ra đi.
Qua những ngày sau đó, tình trạng cũng chẳng lấy làm khả quan hơn, thế là tất
cả năm trăm Tỳ khưu đều lần lượt ra đi cả. Chỉ còn lại một mình Đại đức Ānanda
(những bậc đại phúc đức bao giờ cũng đầy đủ uy tín, giữ đức tin trong sạch của hàng
tại gia cư sĩ. Đệ tử của Đức Như Lai trong hàng xuất gia có Đại đức Sāriputta, Đại
đức Moggallāna là hai Thượng Thinh Văn, Tỳ khưu Ni Khemā (An Bình), Tỳ khưu
Ni Uppalavaṇṇā là hai nữ Thượng Thinh Văn, trong hàng tại gia cư sĩ thì có Trưởng
giả Citta, Dạ xoa Āḷavaka là hai Thượng Thinh Văn thiện nam, về tín nữ thì có nàng
Veḷukaṇṭakī Nandamātā và nàng Khujjuttarā là hai nữ Thượng Thinh Văn tín nữ. Tám
vị nầy đáng được liệt kê ở hàng đầu trong tứ chúng. Ngoài ra tất cả các vị Thinh Văn
ở các quốc độ, hễ đã hoàn thành thập độ rồi cũng đều là những bậc Đại phúc đức viên
mãn hạnh nguyện hết. Đại đức Ānanda, Ngài đã trải qua một trăm ngàn đại kiếp, hoàn
thành đủ pháp độ Ba la mật (Pāramī), hạnh nguyện đã viên mãn, Ngài có đầy đủ uy
tín, giữ vững đức tin của hàng tại gia cư sĩ, một mình Ngài được hoàng tộc thỉnh mời
ngồi và dâng cúng đàng hoàng tử tế. Sau khi chư Tăng ra về, Quốc vương ngự vào trai
đường, trông thấy thực phẩm loại cứng loại mềm còn nguyên trên bàn, bèn phán hỏi
nội thị rằng:
- Chư Đại đức không đến thọ bát hay sao?
- Tâu bệ hạ chỉ có một mình Đại đức Ānanda đến mà thôi.
Quốc vương nghe tâu, buồn giận chư Tỳ khưu, nghĩ rằng:
- Các Ngài đã cắt đứt con đường thiện duyên của trẫm rồi.
Quốc vương ngự đến bái kiến Đức Bổn Sư và bạch rằng:
- Bạch Ngài quả nhân đã chuẩn bị cả năm trăm cổ phần để sớt bát cúng dường
chư Tăng, mà nghe rằng: Chỉ có một mình Đại đức Ānanda đến thọ thực... Số thực
phẩm dọn ra mà còn y nguyên. Năm trăm vị Tỳ khưu không thấy vào hoàng cung,
không biết vì lý do nào?
Đức Bổn Sư không qưở trách chư Tỳ khưu, Ngài chỉ vỗ về đức vua Pasenadi
rằng:
- Tâu đại vương! Chắc là chư Thinh Văn của Như Lai không có tình thân mật
với đại vương, cho nên không đi vào cung nội.
Kế đó, Đức Bổn Sư kêu gọi chư Tăng vào và giảng dạy những trường hợp nào
chư Tăng không đến thọ thực nơi nhà thí chủ và những trường hợp nào nên đến. Đoạn
Ngài kết thúc bằng bài kinh nầy:
“Navahi bhikkhave aṅgehi samannāgataṃ kulaṃ anupagantvā ca nālaṃ
upagantuṃ upagantvā ca nālaṃ upanisīdituṃ. Katamehi navahi? Na manāpena
paccuṭṭhenti, na manāpena abhivādenti, manāpena asanaṃ denti, santamassa
pariguyhanti, bahukamhi thokaṃ denti, paṇītamhi lūkhaṃ denti, asakkaccaṃ denti, no
sakkaccaṃ, na upanisīdanti dhammassavanāya, bhāsantassa na rañjiyanti. Imehi kho
bhikkhave navahi aṅgehi samannāgataṃ kulaṃ anupagantvā ca nālaṃ upagantuṃ
upagantvā ca nālaṃ upanisīdituṃ”. Navahi bhikkhave aṅgehi samannāgataṃ kulaṃ
anupagantvā ca alaṃ upangantuṃ apagantvā vā alaṃ upanisīdituṃ”.
“Nầy các Tỳ khưu, có chín điều mà gia tộc nào hội đủ thì Tăng không nên đến
đó nếu chưa đến. Hoặc không nên ngồi nếu đã đến đó. Thế nào là chín?
1. Họ không hoan hỷ đứng dậy tiếp rước.
2. Họ không hoan hỷ đảnh lễ.
3. Họ không hoan hỷ mời ngồi.
4. Có vật dụng mà họ giấu.
5. Có nhiều mà họ dâng ít.
6. Có đồ ngon mà họ dâng đồ dở.
7. Họ dâng bằng cách không cung kính.
8. Họ không giữ lễ, không ngồi gần.
9. Họ không thỏa thích trong khi nghe nói pháp giảng đạo.
Nầy các Tỳ khưu, chín điều nầy gia tộc nào hội đủ thì Tăng không nên đến đó
nếu chưa đến, hoặc không nên ngồi nếu đã đến rồi.
Nầy các Tỳ khưu, có chín điều mà gia tộc nào hội đủ thì chư Tăng nên đến đó
nếu chưa đến, hoặc nên ngồi nơi đó nếu đã đến rồi. Thế nào là chín?
1. Hoan hỷ mời ngồi.
2. Họ hoan hỷ đứng dậy tiếp rước.
3. Họ hoan hỷ đảnh lễ.
4. Có vật dụng họ không giấu.
5. Có nhiều mà họ dâng nhiều.
6. Có đồ ngon mà họ dâng đồ ngon.
7. Họ dâng bằng cách cung kính.
8. Họ giữ lễ phép, ngồi gần.
9. Họ thỏa thích nghe pháp, nói đạo.
Nầy các Tỳ khưu, chín điều nầy, gia tộc nào mà hợp đủ thì Tăng nên đến đó nếu
chưa đến, hoặc nên ngồi nếu đã đến rồi”.
Dứt bài kinh, Đức Thế Tôn lại tiếp chuyện với nhà vua:
- Tâu đại vương! Chắc là các Thinh Văn của Như Lai không tìm được thân mật
nơi đại vương, cho nên mới không đi vào ngự như vậy. Quả thật, bậc hiền trí ngày
xưa, cho dầu được hộ độ chu đáo, nhưng ở chỗ thiếu tình thân mật cũng đã thọ khổ
gần chết được, đến nỗi phải ra đi trở về nơi có tình thân mật.
- Bạch Ngài, vào thời nào vậy?
Đức Thế Tôn liền thuật lại tiền tích rằng:
Thưở xưa, dưới triều đại vua Brahmadatta, đóng đô tại thành Bārāṇasī. Có một
quốc vương là Kesava (Quyền Phát) đã từ bỏ ngai vàng điện ngọc, ra đi xuất gia làm
đạo sĩ, năm trăm tùy tướng cũng xuất gia theo làm môn đệ của Kesava, người thợ cạo
của đức vua cũng xuất gia làm thị giả của đạo sĩ, có tên là Kappaka (Lý Phát).
Đạo sĩ Kesava cùng với những môn sinh tu ở miền Tuyết Sơn (Himavanta) trong
tám tháng nắng ráo. Đến mùa mưa, đạo nhân dắt đoàn đạo sĩ môn đệ ra đi đến thành
Bārāṇasī, khất thực trong kinh thành.
Khi ấy, vua Brahmadatta trông thấy đạo sĩ Kesava thì phát tâm trong sạch. Thỉnh
được đạo nhân nhận lời an cư bốn tháng trong hoàng thành, đức vua cho người sửa
sang vườn ngự uyển để đạo nhân lưu trú. Mỗi ngày hai lượt, sáng và chiều đức vua
ngự đến lo việc hộ độ các đạo nhân.
Ở được vài ba ngày, các đạo sĩ đệ tử điếc tai vì các tiếng voi, ngựa hí, chịu
không nổi nên xin thầy cho mình rút lui. Đạo nhân hỏi:
- Chư hiền đồ sẽ đi về đâu?
- Bạch Sư phụ, chúng con về núi Tuyết Sơn.
- Nầy chư hiền đồ, ngày mới đến đây ta đã nhận lời của Quốc vương ở trú an cư
nơi nầy bốn tháng, sao chư hiền đồ lại tính bỏ ra đi?
- Bạch Sư phụ, tại vì Sư phụ nhận lời mà không cho chúng con hay biết. Nơi
đây, chúng con không thể ở lại đây, xin cho chúng co kiếm chỗ ở gần nơi đây, hầu có
thể nghe ngóng tin tức của Sư phụ.
Nói rồi, cả đoàn đệ tử đảnh lễ từ biệt Kesava đạo nhân. Chỉ còn lại mình đạo sĩ
Kappaka là vị thị giả ở lại hầu thầy mà thôi.
Khi đến hộ độ các đạo nhân, Quốc vương hỏi:
- Chư đạo sĩ đi đâu hết rồi?
- Tâu đại vương, chư hiền đồ bất mãn nên đã xin trở về núi Tuyết Sơn cả rồi.
Không bao lâu, đạo sĩ Kapppaka cũng không thể kham nhẫn, bèn tỏ thật với
thầy: “Bạch Sư phụ, con cũng không thể cố gắng ở lại đây lâu hơn nữa được”.
Sau khi xin phép nhiều lần, vị thị giả được đạo nhân Kesava bằng lòng cho đi về
Tuyết Lãnh Sơn nhập chung với các bạn đồng tu, ở một nơi cách đó không bao xa để
có thể nghe ngóng tin tức Sư phụ được dễ dàng.
Thời gian sau, đạo sĩ Kesava sanh chứng đau bụng vì nỗi nhớ nhung các đệ tử
thân yêu. Quốc vương khiến ngự y đến điều trị, nhưng bịnh tình không thuyên giảm
chút nào cả.
Đạo nhân thấy đức vua ân cần săn sóc, bèn hỏi:
- Tâu đại vương! Có thật đại vương muốn tôi khỏi bệnh chăng?
- Bạch Ngài! Nếu quả nhân có cách nào làm cho Ngài mau bình phục thì quả
nhân sẽ thi hành ngay.
- Tâu đại vương! Nếu đại vương muốn cho tôi mau lành bịnh được yên lành, thì
đại vương cho người đưa tôi về với các môn sinh.
- Bạch Ngài, được lắm.
Quốc vương truyền lệnh cho nội thị đặt đạo nhân nằm trên một chiếc giường, rồi
khiến bốn vị đại thần, có quan Nārada lãnh đạo, đưa đạo nhân đi với lời ủy thác: “Chư
khanh đi đến nơi rồi hãy lưu lại, chờ xem bao giờ đạo trưởng bình phục sức khỏe thì
báo cho trẫm biết”.
Thị giả Kappala nghe tin Sư phụ đã về, lật đật ra đi tiếp đón. Đạo nhân hỏi: “Còn
các hiền đồ khác ở đâu?”.
Đạo sĩ kappala đáp: “Bạch Sư phụ, nghe nói các sư huynh sư đệ của con ở tại nơi
đó”.
Các đạo sĩ môn đệ hay tin thầy trở về, cũng đều quy tụ lại đông đủ, chung lo
chăm sóc đạo nhân, như dâng nước nóng, các thứ cái cây rừng và thực phẩm khác.
Chỉ trong chốc lát, đạo nhân khỏi bịnh và vài ba ngày sau da dẻ đã sáng ánh như
vàng ròng. Khi ấy đại thần Nārada hỏi đạo nhân:
“Manussindaṃ jahitvāna,
Sabbakāmasamiddhinaṃ;
Kathannu bhagavā kesi,
Kappassa ramasi assameti”.
“Chốn thảo am đủ mùi dục lạc,
Sao Thế Tôn Quyền Phát bỏ đi.
Thảo am Lý Phát có chi,
Mà Ngài lưu luyến làm gì cho cam?”.
“Sādūni ramaṇīyāni,
Santi rukkhā manoramā;
Subhāsitāni kappassa,
Nārada ramayanti manti”.
“Nārada nầy, chốn thảo am,
Là nơi ta thích, không nhàm chán đâu.
Cỏ cây đẹp mát rừng sâu,
Có trì Lý Phát bạn bầu sớm hôm”.
“Sālīnaṃ odanaṃ bhutvā,
Sucimaṃsūpasecanaṃ;
Kathaṃ sāmākanivārā,
Aloṇā sādayanti tanti”.
“Cơm Sà Li thơm ngon trộn thịt,
Ngài quen dùng thỏa thích sẵn sàng.
Sá chi kê lạt tồi tàn,
Mà Ngài lưu luyến buộc ràng nơi đây?”.
“Asāduṃ yadi vā sāduṃ,
Appaṃ vā yadi vā bahuṃ;
Vissaṭṭho yattha bhuñjeyya,
Vissāsaparamā rasāti”.
“Dầu ngon dầu dở trối thây,
Dầu nhiều dầu ít, dạ nầy chẳng lo.
Chung vui bạn lữ thầy trò,
Ăn sao cũng được, miễn cho thâm tình”.
Thuyết dứt tích bổn sanh nầy, Đức Bổn Sư dẫn giải rằng:
- Quốc vương thời ấy nay là Moggallāna, Nārada nay là Sāriputta, thị giả
Kappaka nay là Ānanda và đạo sĩ Kesava chính là đấng Như Lai vậy.
Đức Bổn Sư nói tiếp: “Tâu đại vương, những bậc hiền trí thời xưa đã từng thọ
khổ gần đến mạng chung, chỉ vì thiếu tình thân mật như thế đó. Các Thinh Văn của
Như Lai, sở dĩ không vào hoàng cung cũng bởi vì không được thân mật với đại vương
vậy”.
Quốc vương Pasenadi suy nghĩ: “Bây giờ quả nhân phải làm sao để cho Tăng
chúng thân thiện với quả nhân đây? À quả nhân nên cầu hôn với hoàng tộc Thích Ca
là quyến thuộc của Đức Chánh Biến Tri, được như vậy các Tỳ khưu và Sa di sẽ thấy
quả nhân là quyến thuộc của Đấng Chánh Biến Tri, ắt hẳn sẽ thân thiện với quả nhân
và sẽ lui tới trong đền ngự”.
Nghĩ vậy, Quốc vương phái sứ giả sang cầu hôn với dòng Thích Ca: “Khanh hãy
đại diện cho trẫm, qua nạp sính lễ cầu hôn, xin cưới một Công chúa thuộc huyết thống
Thích Ca rồi trở về đây phục lịnh”.
Sứ thần lãnh mạng ra đi cầu hôn với dòng họ Thích. Tại thành Kapilavatthu, tất
cả những vị tai mắt, đại diện cho hoàng tộc Thích Ca, đều được các Quốc vương triệu
thỉnh nhóm đại hội dòng tộc biểu, để tham khảo ý kiến. Ai cũng cho rằng: “Vua
Pasenadi không phải là dòng môn đăng hộ đối, dòng huyết thống ngang với chúng ta.
Nhưng nếu chúng ta không nhận gả con cho y, thì y sẽ dấy động can qua, hưng binh
đánh chiếm nước ta chẳng sai. Vậy ta nên làm gì bây giờ?”.
Đức vua Mahānāma (Đại Danh) bèn đề nghị rằng:
- Đứa con gái, tức thế nữ của trẫm, tên là Vāsabhakhattiya, có nhan sắc tuyệt
đẹp, ta hãy đem gả cho vua ấy.
Giải pháp nầy được hoàng tộc thích Ca chấp nhận. Đức vua bèn đáp lời cùng sứ
giả: “Quả nhân vui lòng gả Công chúa cho Quốc vương”.
Sứ giả tâu rằng: “Công chúa ấy là con vị vua nào?”.
- Công chúa là con gái của đức vua Mahānāma, là biểu đệ của Đức Chánh Biến
Tri, mỹ hiệu là Vāsabhakhattiya.
Sứ thần về nước mang tin mừng nầy tâu lên vua Pasenadi. Đức vua phán: “Nếu
vậy thì tốt lắm, khanh hãy qua nghênh đón công chúa về đây cho mau. Nhưng hãy nên
cẩn thận đề phòng, dòng Sát Đế Lỵ Thích Ca thường man trá. Sợ e đem con gái của
bọn phi tần đấy. Khanh hãy nài cho được thấy Công chúa dùng cơm chung một mâm
với phụ vương trong bữa ăn tiệc tiễn hành cho chắc ý, rồi sẽ rước về”.
Các sứ thần mai dong tuân lịnh vua Pasenadi ra đi, gặp vua Mahānāma thì tâu
rằng:
- Tâu bệ hạ! Quốc vương của tôi muốn cho Công chúa được ngồi dùng cơm
chung với Ngài trong bữa tiệc tiễn hành.
- Tốt lắm, nầy chư hiền sĩ.
Đoạn Quốc vương Mahānāma khiến Công chúa trang điểm hoàn bị, đến giờ ngự
thiện thì dùng chung mâm với đức vua cho sứ thần trông thấy. Xong bữa, đức vua
chuyển giao Công chúa cho sứ giả hộ giá vu quy.
Đưa dâu về đến thành Sāvatthī, các sứ giả tâu với Quốc vương các việc mình đã
mục kích tận tường. Quốc vương cả đẹp bèn phong cho Công chúa làm Chánh hậu,
chưởng quản một nhóm năm trăm cung phi.
Không bao lâu sau, chánh hậu hạ sanh được một hoàng nam, màu da sáng chói
như vàng ròng, đến ngày lễ đặt tên cho hoàng tử, Quốc vương phán quan nội giám
đến thỉnh ý hoàng Thái hậu.
- Công chúa Vāsabhakhattiya dòng Thích Ca, là chánh cung hoàng hậu vừa mới
hạ sanh hoàng tử, Tổ mẫu ưng đặt tên gì cho cháu nội?
Quan Thái giám lãnh lịnh của Quốc vương là người có tật lãng tai, khi đến tư
cung của hoàng Thái hậu, ông trình bày sứ mạng của ông xong, Thái hậu đáp rằng:
- Thái tử là con của hoàng hậu Vāsabhakhattiya, lúc chưa sanh cũng đã thu phục
được lòng người rồi. Bây giờ đây chắc hẳn là được quốc vương sủng ái vô cùng vậy?
Viên nội giám lãng tai, nghe lầm tiếng Vallabha (Đắc Sủng) thành ra tiếng
Viḍūḍabha (Lưu Ly), rồi in trí như thế, nên trở về tâu với Quốc vương:
- Tâu bệ hạ, xin bệ hạ đặt Thái tử tên là Viḍūḍabha.
Quốc vương nghĩ thầm: “Chắc đây là một tên rất xưa trong hoàng tộc trẫm”.
Nghe theo lời của viên nội giám lãng tai, Quốc vương đặt tên cho Thái tử là
Viḍūḍabha.
Ngay từ khi thái tử còn ở tuổi thiếu niên, quốc vương muốn lấy lòng Đức Bổn
Sư, đã phong thái tử làm chức Hàm đô thống đại nguyên soái.
Lúc mới bảy tuổi, thái tử Viḍūḍabha trông thấy các vương tôn hoàng tử đồng tuế
được ngoại tổ gởi cho đồ chơi như hình voi, hình ngựa hoặc thứ nầy thứ nọ, thì hỏi
mẹ:
- Mẫu hậu ơi! Sao mấy hoàng nam khác có ngoại tổ gởi đồ chơi đủ thứ, còn con
không có ai gởi tặng món chi hết vậy? Bộ con không có ngoại tổ phụ mẫu hay sao?
Chánh hậu đáp rằng: “Nầy vương nhi con! Ngoại tổ của con là dòng Thích Ca, ở
cách đây xa lắm, cho nên không gởi quà tặng cho con được”.
Đến khi được mười sáu tuổi, thái tử Viḍūḍabha lại thưa với mẹ:
- Tâu mẫu hậu! Con muốn được về thăm dòng họ bên ngoại.
Chánh hậu gạt ngang, bảo rằng:
- Thôi vương nhi! Con về bên ấy mà làm gì?
Thái tử cứ theo mẹ mà van xin mãi. Sau cùng Chánh hậu phải chìu theo: “Vương
nhi muốn đi thì con cứ đi”.
Chánh hậu Vāsabhakhattiya khiến người mang thơ đi trước thái tử về báo tin cho
vua Mahānāma hay, nói rằng: “Con ở đây vẫn bình yên, xin hoàng tộc Thích Ca đừng
lộ vẻ gì khác với chồng con, đừng cho thái tử cùng quan hộ giá trông thấy”.
Hoàng tộc Thích Ca hay tin thái tử Viḍūḍabha sắp đến Kapilavatthu, thì thương
nghị cùng nhau và và quyết định rằng:
- Không thể để cho con cháu chúng ta đảnh lễ, chào đón nó.
Thế là bao nhiêu hoàng tôn, thái tử nhỏ tuổi hơn thái tử Viḍūḍabha đều được gởi
về miền quê đổi gió. Các vị lớn tuổi ở lại tập trung nơi tòa khách thính trong thành
Kapilavatthu.
Thái tử Viḍūḍabha được đưa vào thành, khi đứng trước các vị ấy, họ tự giới
thiệu rằng: “Nầy vương nhi, đây là ngoại tổ của con. Đây là cửu phụ của con”.
Thái tử đảnh lễ ra mắt tất cả mọi người xong, không thấy có ai đảnh lễ lại mình,
thì hỏi rằng:
- Sao không ai đảnh lễ con hết vậy?
Quyến thuộc Thích Ca trả lời rằng:
- Nầy vương nhi! Các thái tử hoàng tôn tuổi nhỏ hơn con mắc về quê cả rồi.
Và họ sắp đặt tiệc đãi đằng hoàng tử Viḍūḍabha rất trọng hậu. Thái tử lưu lại
Kapilavatthu vài ba hôm chơi, rồi tạ từ dòng họ Thích Ca lên đường về xứ.
Khi ấy, các cung nữ đến dọn dẹp quét tước ngôi khách thính, lấy sữa tươi rửa
cẩm đôn, nơi mà hoàng tử Viḍūḍabha đã ngồi, vừa rửa vừa mắng rằng: “Đây là chỗ
ngồi của con trai cung nữ Vāsabhakhattiya”. Bất ngờ thay, có một viên tùy tướng của
thái tử bỏ quên khí giới, nên trở lại khách thính lấy, y nghe được những lời nầy, bèn
gạn hỏi rõ nguyên nhân, mới biết rằng: “Chánh hậu Vāsabhakhattiya tuy là con của
đức vua Mahānāma dòng Thích Ca, nhưng mẹ nàng lại là một cung nữ”.
Viên tùy tướng đem chuyện nầy thuật lại cho quân sĩ nghe. Thế là, trong sĩ tốt có
tiếng xôn xao, đồn rằng: “Bà Vāsabhakhattiya là con gái của một cung nữ”. Thái tử
Viḍūḍabha nghe rõ câu chuyện, chàng căm tức dòng họ Thích Ca, thề rằng: “Mặc cho
bọn nó giỏi lấy sữa tươi mà rửa chỗ ngồi của ta, khi nào lên làm vua ta sẽ lấy máu cổ
họng chúng nó mà rửa lại chỗ ấy”.
Khi thái tử về đến thành Sāvatthī, các quan tùy giả thuật lại sự tích ấy do cung
nữ Kapilā (Vệ Kim Thành) đã thổ lộ, nguồn gốc của chánh hậu lên đức vua Pasenadi.
Quốc vương rất căm thù dòng họ Thích Ca, nghĩ rằng: “Bọn nầy đã mạo muội gả con
gái cung nhân cho trẫm”.
Quốc vương hạ lịnh tước đoạt phẩm vị của Chánh cung hoàng hậu và Đông cung
thái tử, biếm xuống làm cung nhân.
Cách mấy hôm sau, Đức Bổn Sư ngự vào hoàng cung, an ngự vào chỗ ngồi soạn
sẵn, quốc vương bèn đảnh lễ Ngài và bạch rằng: “Bạch Ngài, quả nhân xin cho Ngài
hay biết các quyến thuộc của Ngài đã mạo hôn, gả con gái cung nữ cho quả nhân, vì
vậy, cho nên quả nhân đã tước hết phẩm vị Chánh hậu và Đông cung thái tử, cho làm
cung nhân, nô tỳ vì phận vị ấy hợp với họ”.
Đức Bổn Sư phán rằng: “Tâu đại vương, việc nầy rất oan uổng cho họ, Chánh
hậu đã được dòng Thích Ca nhìn nhận ngang hàng mới đem gả cho đại vương. Như
Lai xác nhận việc nầy. Đại vương, mẫu hệ không nghĩa lý gì, chỉ có phụ hệ là đáng kể
mà thôi.
Như bậc hiền trí thưở xưa đã phong cho một thiếu nữ bần hàn đi mót củi khô lên
làm chánh hậu, thái tử do nàng ấy sanh ra về sau lãnh tụ, là vị chúa tể thống trị cả
quốc độ Bārāṇasī rộng đến mười hai do tuần, có danh hiệu là Kaṭṭhavāhanarāja (Tiều
Phu Vương).
Nhân dịp nầy, Đức Bổn Sư thuật tích Bổn Sanh Nữ tiều phu (Kaṭṭhahāriyajātaka).
Quốc vương Pasenadi nghe pháp rồi, công nhận chỉ có phụ hệ là đáng kể nên
phát tâm hoan hỷ, bèn truyền lịnh ân xá chánh hậu và thái tử, cho phục hồi cựu vị.
Nói về đô thống tướng quân Bandhula kết hôn với Công chúa Mallikā (Mạt Lỵ),
là con vua xứ Malla, đã lâu ngày không có con. Gia tộc Bandhula kết tội nàng là “vô
hậu”, nên đuổi Công chúa trở về cố quốc. Công chúa định đến bái biệt Đức Bổn Sư
rồi sẽ lên đường. Vào Tịnh xá Jetavana, Công chúa đảnh lễ Đức Như Lai rồi đứng qua
một bên. Đức Bổn Sư phán hỏi:
- Con đi đâu đây?
- Bạch Ngài, con trở về sanh quán.
- Tại sao vậy?
- Bạch Ngài, vì con hiếm muộn, chồng con kết tội vô hậu, nên đuổi về xứ.
- Nếu thế thì con khỏi cần đi về quê, con hãy trở lại nhà chồng.
Công chúa mừng rỡ, đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi trở gót về nhà Thống soái
Bandhula, Bandhula hỏi rằng:
- Tại sao nàng trở lại?
- Đức Thập Lực bảo thiếp trở lại.
Đại Tướng quân Bandhula bằng lòng cho vợ ở lại và nghĩ: “Chắc Đức Thập Lực
tiên tri, thấy được vị lai. Thôi ta hãy ráng chờ xem”.
Quả thật, chẳng bao lâu Công chúa thọ thai, sanh chứng ốm nghén, thèm khát
không chịu đựng được, bèn tỏ thật cùng chồng. Tướng quân Bandhula hỏi: “Nàng
thèm món chi?”.
- Thưa tướng quân, tại kinh đô Vesālī, trong ngự uyển của vương tộc Licchavī,
có hồ sen mà họ dành dùng làm lễ tôn vương. Thiếp thèm tắm rửa và uống nước trong
hồ ấy.
Tướng quân Bandhula nói: “Được.” Đoạn Đại tướng lấy chiếc cung thần có sức
mạnh gấp ngàn lần cung nỏ thường đeo lên vai. Gióng xe ra khỏi thành Sāvatthī,
nhắm ngay thành Vesālī tiến tới và đột nhập vào thành Vesālī, do cửa của Thái tử
Mahāli trấn giữ. Tư dinh của Thái tử Mahāli gần cửa kinh thành, Mahāli nhủ thầm:
“Đây là tiếng xe của Tướng quân Bandhula. Hôm nay chắc các vua dòng Licchavī
phải kinh tâm tán đởm”.
Các hồ cấm có hộ vệ quân trấn giữ, phòng thủ trong ngoài cẩn mật. Trên mặt hồ
có lưới nhặt mắt, bao phủ kín mít một con chim nhỏ chui qua cũng không lọt.
Thế mà, Đô thống tướng Bandhula xuống xe tuốt gươm đánh đuổi lực lượng
phòng vệ thật mau lẹ, chém đứt lưới đồng bao phủ mặt hồ, dìu vợ xuống tắm dưới hồ.
Khi Công chúa tắm xong và uống nước thỏa mãn rồi, Tướng quân cũng tự mình
xuống tắm.
Xong rồi, Đại tướng lái xe vượt qua khỏi thành Vesālī lên đường trở về bổn
quốc.
Quân lính giữ ao hồ báo tin cho các vua Licchavī, các vua nổi giận, thắng năm
trăm cỗ chiến xa, tức tốc dẫn binh xông ra khỏi thành, quyết theo bắt cho được
Bandhula và Mallikā.
Các vua ghé vào dinh của Mahāli để cho biết ý định thì Thái tử cản rằng: “Thôi
chư vương, đừng đuổi theo. Bandhula sẽ giết sạch chư vương, không sót một mạng”.
Các vua đồng thanh nói:
- Dầu sao chúng tôi cũng sẽ rượt theo hắn.
Mahāli dặn rằng: “Nếu vậy, chư vương nên lưu ý đề phòng. Hễ khi nào trông
thấy bánh chiến xa của y lún xuống tới bùn thì nên thu quân trở lại. Nếu không, khi
chư vương tiến tới mà nghe tiếng nổ vang như sấm, lúc ấy nên lui binh, bằng không
chư vương sẽ thấy các đầu chiến xa của mình đứt đoạn nát tan. Đến đây, chư vương
không nên liều lĩnh tiến xa hơn nữa mà nguy đến tánh mạng”.
Các vua Licchavī bất chấp lời khuyên ngăn của Thái tử Mahāli, đem hết toàn lực
đuổi theo Bandhula tướng quân. Công chúa Mallikā nhìn lại phía sau lưng, thấy bụi
bay mù mịt, nàng nói với chồng: “Thưa phu tướng, hình như có nhiều chiến xa đuổi
theo chúng ta”.
- Nếu vậy, nàng hãy nhìn cho kỹ, chừng nào thấy chiếc xe đầu tiên rõ rệt thì hãy
bảo ta.
Khi thấy tất cả đoàn xe hiện ra như một chiếc xe giữa đám bụi mù. Công chúa
Mallikā bảo chồng:
- Thưa phu tướng, giờ thiếp thấy rõ như một cái đầu xe.
Tướng quân Bandhula trao dây cương ngựa qua cho vợ, dặn rằng: “Nếu vậy,
nàng hãy cầm giữ dây cương nầy, lái xe cho đi thẳng đường, để một mình ta đối phó
với họ”.
Nói rồi Bandhula lấy thế đứng vững trên xe, lắp sẵn tên vào chiếc cung thần.
Khi thấy chiếc chiến xa của tướng Bandhula bị lún bánh xuống tới bùn, các vua
thấy vậy cũng chẳng lui bước. Tướng quân Bandhula cho xe mình đi một quãng
đường ngắn rồi giơ tay búng dây cung thần, một tiếng nổ vang trời vang lên như tiếng
sấm. Các vua Licchavī nghe vậy cũng chẳng nao núng mà còn đuổi theo rất gấp.
Bandhula đứng trên xe bắn mũi tên, mũi tên ấy đâm lủng đầu năm trăm cỗ chiến xa
địch, xuyên qua mình năm trăm vua Licchavī ngay chỗ dây ngọc đái, rồi cắm phập
xuống đất; các vua Licchavī không hay rằng mình đã trúng tên địch, hăng hái xông tới
thét lớn: “Tiểu tốt vô danh, có giỏi thì đứng đó đừng chạy”.
Bandhula dừng xe lại, đợi các vua Licchavī đến gần mắng rằng: “Đồ chết bắn, ta
không thèm giao chiến với những xác chết đâu”.
Các vua Licchavī bảo: “Ngươi hãy xem cho kỹ, chúng ta không phải là những
xác chết”.
Bandhula nói: “Tất cả các ngươi đồng chung số phận, các ngươi hãy cởi mở
ngọc đái của tên thủ lãnh ra xem”.
Các vua Licchavī vừa mở dây ngọc đái của tên thủ lãnh thì vị nầy ngã xuống
chết.
- Tất cả các ngươi đều đồng chung số phận với tên đầu lãnh, mỗi người hãy trở
về nhà sắp đặt việc hậu sự, từ giã vợ con quyến thuộc, rồi hãy cởi bỏ khôi giáp.
Bandhula đưa Công chúa Mallikā về thành Sāvatthī. Từ đó về sau, Công chúa
sanh mười sáu lần sanh đôi con trai. Tất cả đều là những tay vũ dũng, có đởm lược
anh hùng, đến tuổi trưởng thành đều am tường lục thao tam lược, mỗi chàng đền có
ngàn sĩ tốt bộ hạ. Mỗi lần Bandhula tướng quân về triều yết kiến quốc vương, các
công tử và bộ hạ đi theo vào đứng chật cả sân rồng trong đền ngự.
Một hôm, các quan tòa xử án, nhiều người vì bị xử hiếp trong một vụ kiện, trông
thấy tướng quân Bandhula đi tới, la ó lên, phản đối các thẩm phán thiên vị và cậy nhờ
tướng quân can thiệp. Bandhula tướng quân vào đến giữa tòa, minh xét lại bản án, làm
cho rõ ngay gian và giúp cho người sỡ hữu chủ được thắng kiện. Quần chúng dự thính
hoan hô vang dậy.
Quốc vương nghe tiếng reo hò phán hỏi thị thần: “Chuyện chi thế?”. Khi biết rõ
nguyên do, Quốc vương rất hài lòng, giáng chức các quan tòa cũ và bổ nhậm
Bandhula cầm đầu Tam pháp y. Từ ngày nhậm chức mới, Bandhula xử đoán rất công
minh. Các vị tài phán bị cách chức, mất cả danh lợi đem ra thù ghét Bandhula, nên
kiếm chuyện đâm thọc với hoàng thân quốc thích, tuyên truyền rằng: “Bandhula âm
mưu tạo phản”.
Quốc vương nghe các quyến thuộc tâu vào tâu ra mãi, cũng mắc kế của bọn gian
thần, sanh tâm nghi ngờ người bạn cố tri, muốn tru lục cha con Bandhula để trừ hậu
hoạn.
- Nếu trẫm ra lịnh hành quyết ngay tại nơi đây, ắt là mang tiếng người đời chê
trách.
Quốc vương liền mật sai những tướng quân tâm phúc giả làm quân phiến loạn,
đánh phá nơi biên thùy. Đoạn triệu tướng Bandhula vào triều phán rằng:
- Có tin biên thùy dấy loạn, trẫm phú cho hiền đệ và các hiền điệt đi tiểu trừ và
bắt cho được bọn cướp thảo khẩu ấy.
Tướng quân lãnh mạng ra đi, không ngờ Quốc vương ngầm sai những tướng tài
khác đi kèm theo với mấy cha con, với lịnh truyền rằng: “Chém đầu Bandhalu với ba
mươi hai công tử, đem thủ cấp về đây”.
Trong lúc đội binh mã rầm rộ kéo đi ra biên thùy. Bọn khấu tặc nghe tin Đô
thống tướng Bandhula xuất chinh, bèn tan rã hàng ngũ, bỏ chạy trước. Tướng quân
vào thành lập lại trật tự vỗ an bá tánh, xong rồi kéo đại binh trở về gần tới kinh đô,
các tướng sĩ lãnh lịnh vua thi hành bản án tử hình. Bắt hết cha con tướng quân
Bandhula xử trảm một lượt.
Hôm ấy, nhằm ngày Công chúa Mallikā cung thỉnh hai vị Thượng Thinh Văn và
năm trăm Tỳ khưu đến soái phủ thọ thực. Vào buổi sáng hôm ấy, công chúa nhận
được thư báo của gia nhân: “Chồng và các con đã bị xử trảm”. Được biết hung tin
công chúa vẫn lặng thinh, nhét phong thơ vào trong vạt áo, lo việc hộ độ chư Tăng,
như không có việc gì quan hệ xảy ra, khi ấy bọn nữ tỳ của Công chúa, sau khi dâng
cơm đến chư Tỳ khưu, đang bưng cái bình sanh tô (bơ tươi) đến trước hai vị Đại đức
thì sút tay, buông rơi cái bình xuống nền bể nát.
Đức Sāriputta nói an ủi rằng:
- Của tạm bợ vô thường, lỡ bể thì thôi, chẳng nên ân hận.
Công chúa Mallikā liền lật vạt áo lên, lấy phong thơ đưa ra và nói: “Bạch Ngài,
ba mươi hai đứa con trai và cha nó vừa bị xử trảm, khi được người nhà đưa thư báo
tin nầy, đệ tử đọc rồi còn chẳng ân hận, huống chi là việc bể cái bình sanh tô mà đệ tử
ân hận hay sao?”.
Đức Tướng quân Chánh pháp liền thuyết lên kệ ngôn rằng:
“Animittamanaññātaṃ,
Maccānaṃ idha jīvitaṃ;
Kasirañca parittañca,
Tañca dukkhena saṃyuttanti”.
“Sanh tử không kỳ hạn,
Tuổi thọ khó tiên đoán.
Đời tồi tệ nhỏ nhen,
Đầy khổ đau hoạn nạn”.
Kế đó, Đại đức thuyết tiếp một thời pháp, rồi đứng lên rời Soái phủ, trở về Tịnh xá.
Công chúa cho gọi hết ba mươi hai cô dâu đến phán dạy rằng:
- Chồng các con phải chết vì tay người khác, chẳng qua là trả quả của nghiệp
tiền khiên, các con chớ nên buồn rầu khóc lóc, cũng đừng đem lòng oán hận đức vua.
Các thám tử của quốc vương nghe được những lời nầy, nên về tâu lên quốc
vương việc các quả phụ không đem lòng oán hận Ngài. Nghe vậy, quốc vương sanh
tâm kinh cảm, ngự đến tư dinh của công chúa Mallikā để xin chịu lỗi với công chúa
và các nàng dâu góa bụa, xong rồi ban cho công chúa một ân huệ.
Công chúa tâu: “Thần thiếp xin nhận lãnh ân huệ của bệ hạ”.
Sau khi quốc vương ngự giá về cung, công chúa cử hành tang lễ, Trai Tăng cầu
siêu, đoạn tắm gội sạch sẽ vào triều yết kiến quốc vương:
- Tâu đại vương! Bệ hạ hứa ban ân huệ, nhưng thần thiếp không cầu mong việc
chi khác, ngoài việc xin bệ hạ gia ân cho thần thiếp và ba mươi hai con dâu được trở
về xứ sở quê hương.
Quốc vương chuẩn tấu. Công chúa sắp đặt cho ba mươi hai nàng dâu ai về nhà
nấy, riêng mình cũng lên đường trở về quê quán trong thành Kusinārā.
Quốc vương ấn phong cháu trai của tướng quân Bandhula là Dīghakārāyana
(Trường Lao) làm Đô thống đại Nguyên soái.
Nhưng Dīghakārāyana căm thù quốc vương đã xử trảm Bandhula nên hằng chờ
cơ hội để trả thù cho cậu mình.
Lúc bấy giờ, Đức bổn Sư đang ngự trong thị trấn Meḍalapa của dòng Thích Ca,
quốc vương ngự giá đến đó, an dinh hạ trại cách chùa không bao xa, đoạn rời khỏi đại
quân tùy giá vào chùa đảnh lễ Đức Bổn Sư, trước khi vào hương thất một mình, quốc
vương cởi hết những phù hiệu của nhà vua (mão, hia, kiếm, trướng và hốt), giao cho
Dīghakārāyana gìn giữ (đoạn nầy trong kinh Dhammacetiya sutta (Pháp Tháp) trong
Trung Bộ Kinh có giải rõ từng chi tiết).
Thừa lúc quốc vương Pasenadi vào trong hương thất, Dīghakārāyana lấy hết phù
hiệu vương vị, tôn Thái tử Viḍūḍabha lên làm vua, kéo rốc toàn quân trở về thành
Sāvatthī, chỉ thừa lại cho quốc vương một con ngựa già và bà thế nữ hầu hạ vua mà thôi.
Sau khi đàm đạo thân ái với Đức Bổn Sư, quốc vương đảnh lễ Ngài trở ra, không
thấy binh lính, hỏi bà thế nữ mới tỏ rõ mọi sự. Quốc vương nghĩ thầm: “Quả nhân
phải nhờ Vương sanh (cháu kêu Ngài bằng dượng, tức là vua Ajātasattu) tiếp viện mà
bắt Viḍūḍabha mới được”.
Khi quốc vương Pasenadi đến thành Rājagaha thì đã quá giờ lưu thông, các cổng
thành đều đóng kín. Quốc vương buộc lòng phải nghỉ đỡ trong một ký túc xá. Cả ngày
đi nắng lại bị trúng gió cảm sương, quốc vương thăng hà vào lúc nửa đêm. Thế nữ
theo hầu đức vua khóc lóc thở than:
- Bệ hạ ơi! Bệ hạ là chúa của toàn dân xứ Kosala, mà sao phải chọn nằm cô
quạnh lạnh lùng…
Khi đêm tàn, trời hừng sáng, nhiều người nghe tiếng nức nở của bà thế nữ, hỏi ra
mới biết là đức vua Pasenadi thăng hà ở nơi quán trọ ngoài thành, bèn vào báo tin với
quốc vương Ajātasattu, quốc vương bèn ra lịnh hỏa táng một cách trọng thể, y theo
nghi lễ tống chung của bậc đại vương.
Thái tử Viḍūḍabha sau khi tức vị, nhớ lại mối hận ngày xưa, bèn chiêu tập binh
mã, kéo hết đại binh ra khỏi thành Sāvatthī, trong tâm tính rằng: “Trẫm sẽ tận sát
dòng Thích Ca”. Ngày ấy, lúc quán sát thế gian trong buổi sáng, Đức Bổn Sư thấy
rằng dòng họ Thích Ca của Ngài sắp bị tiêu diệt. Ngài tự nghĩ: “Như Lai phải đi về độ
tông tộc mới được”. Thế rồi, trong buổi sáng Ngài đi khất thực, độ xong bữa, Ngài trở
về hương thất. Buổi trưa, Ngài nằm thiền, nghiêng mình về phía phải như con hùng
sư, và buổi xế Ngài bay đến Kapilavatthu, an tọa dưới một gốc cây có bóng mát loang
lổ, nơi giáp ranh hai nước.
Phía bên kia ranh thuộc lãnh thổ của Viḍūḍabha có cây đa to, tàn nhánh rậm rạp
có nhiều bóng mát.
Vừa trông thấy Đức Bổn Sư, vua Viḍūḍabha vội đến gần Ngài đảnh lễ và bạch
rằng:
- Bạch Ngài! Trong lúc nắng nôi thế nầy, sao Ngài lại ngồi chi dưới gốc cây có
bóng râm loang lổ, xin thỉnh Ngài qua ngồi bên gốc cây đa to có nhiều bóng mát, ở
đằng kia.
Đức Bổn Sư đáp rằng: “Tâu đại vương! Bóng râm của thân quyến bao giờ cũng
mát mẻ”.
Nghe vậy, đức vua viḍūḍabha nghĩ rằng: “Chắc Đức Bổn Sư ngồi đây để bảo vệ
gia quyến của Ngài”. Đức vua đảnh lễ rồi cáo từ Đức Bổn Sư và thâu binh trở về
Sāvatthī. Đức Bổn Sư cũng đứng dậy bay về Jetavana.
Quốc vương Viḍūḍabha không thể quên được mối hận thù đối với dòng Thích
Ca, xuất binh lần thứ hai đến chỗ giáp ranh hai nước, cũng gặp Đức Bổn Sư như lần
trước, nên lại thu quân trở về. Đến lần thứ ba đức vua lại xuất binh, lại gặp Đức Bổn
Sư nơi đó và lại thu quân trở về một lần nữa.
Đến lần xuất binh thứ tư của vua Viḍūḍabha, Đức Bổn Sư không can thiệp để
cứu quyến thuộc của Ngài nữa. Vì Ngài quán thấy ác nghiệp của họ ở tiền kiếp, đã bỏ
thuốc độc xuống dòng sông thuốc cá chết, nay quả tới thời trổ quả rồi, không thể che
chở cứu vãn được nữa.
Với quyết tâm: “Trẫm sẽ tận diệt dòng họ Thích Ca”, Viḍūḍabha đem đại đội
hùng binh ra đi, không còn bị Đức Bổn Sư cản trở. Quyến thuộc của Đức Bổn Sư kiên
trì giữ giới sát sanh, thà chịu chết chứ không dám xuống tay giết hại kẻ khác, nghe tin
địch quân kéo đến, họ nghĩ ngay rằng: “Chúng ta là những tay thiện xạ bá phát bá
trúng, nhưng ta không thể phá giới mà giết hại địch quân, ta chỉ nên bắn dọa cho họ sợ
mà chạy thôi”.
Thấy tên bắn như mưa, vua Viḍūḍabha bảo các tùy tướng:
- Các khanh nghĩ sao? Có phải dòng Thích Ca giữ giới không sát sanh, thế mà
bây giờ họ giết hại binh sĩ của trẫm.
Khi ấy, một tùy tướng tâu rằng:
- Tâu chúa thượng, vì sao chúa thượng lại lui quân?
- Dòng Thích Ca giết hại binh sĩ của trẫm.
- Ba quân tướng sĩ không có ai bị thương cả. Xin chúa thượng hãy cho kiểm lại
quân sĩ xem.
Khi kiểm lại quân sĩ, không thấy thiệt mạng ai cả, vua Viḍūḍabha lại truyền lịnh
tấn công và dặn rằng:
- Nầy ba quân tướng sĩ! Các khanh hãy giết sạch những kẻ nào nhận là dòng
Thích Ca, trừ những ai đứng gần ngoại tổ của trẫm là vua Mahānāma, thì các khanh
hãy dung tha mạng sống cho họ.
Quân binh của Viḍūḍabha phá cửa thành Kapilavatthu tuôn vào như nước vỡ bờ,
đi lục soát bắt dòng Thích Ca để tru lục. Có nhiều người không cam tâm chịu chết vô
cớ, bèn cắm cỏ hoặc cầm lau sậy đứng chực sẵn. Hễ quân nghịch đến hỏi: “Ngươi có
phải là dòng Thích Ca không?” Thì nhóm cắn cỏ đáp: “Không phải Thích Ca, cỏ” (No
sāko tiṇanti), còn nhóm cầm lau thì đáp: “Không phải Thích Ca, vi lô” (No sāko
naḷoti). Quân lính ngoại quốc nghe không rành, tưởng họ phủ nhận dòng Thích Ca,
nên không hạ sát họ, các người nầy dầu có chết cũng không dám phạm giới nói dối,
nên đã dùng mẹo khéo nói trớ như vậy mà được sống sót (tiếng Phạn Sāka là rau, đọc
mường tượng như Sākya là Năng Nhân Thích Ca), cả những người chạy theo đứng
gần với vua Mahānāma cũng được tồn sanh. Do đó về sau có danh từ Thảo Thích Ca
(Tiṇasākiya) để chỉ những người cắn cỏ và danh từ Vi lô Thích Ca (Naḷasākiya) để chỉ
nhóm người đứng cầm lau.
Ngoài ba nhóm kể trên, tất cả hoàng tộc Thích Ca dầu là trẻ con còn bú cũng
không toàn mạng. Vua Viḍūḍabha ra lịnh cắt cổ họ đem dội máu lên cẩm đôn mà
mình đã ngồi khi trước.
Tông tộc Thích Ca đã bị vua Viḍūḍabha tru lục như thế, vua Viḍūḍabha ra lệnh
bắt vua Mahānāma đem theo làm tù binh rồi mới rút lui trở về nước.
Đến giờ sáng vua Viḍūḍabha đình bộ, xuống một nơi thung lũng nghỉ, cho quân
hầu bưng cơm và khiến người đi thỉnh ông ngoại đến để cùng ngồi ăn chung một mâm.
Dòng Sát Đế Lỵ thà bỏ mạng chứ không bao giờ chịu ngồi ăn chung mâm với
con trai của thế nữ, cho nên vua Mahānāma nhìn xuống một ao hồ và nói:
- Nầy vương điệt, mình trẫm lấm lem cát bụi, để trẫm đi tắm đã.
- Vâng, ngoại tổ hãy đi tắm đi.
Vua Mahānāma nghĩ thầm: “Nếu ta không ngồi ăn chung với thằng nầy, thì chắc
chắn nó sẽ giết chết ta, thà là ta tự sát cho rồi”.
Vua bèn xả búi tóc ra, cột thắt gút phía ngọn tóc, đoạn xỏ hai chân vào cái nồi,
rồi nhảy ùm xuống nước. Do oai lực cao độ của vua Mahānāma, thủy cung của loài
rồng phát hiện, Long vương tự hỏi: “Có chuyện gì thế?”. Khi quán thấy được nguyên
nhân, Long vương liền rước vua Mahānāma để ngồi trên mang của mình rồi đưa về
thủy cung. Vua Mahānāma lưu trú nơi đây trong mười hai năm trường.
Vua Viḍūḍabha ngồi chờ ngoại tổ đã lâu, bèn khiến quân lính túa đi tìm kiếm
dưới nước trên bờ, đến tối cũng không thấy, thắp đuốc soi đường mà tìm cũng chẳng
thấy được nhà vua mất tích. Sau cùng, vua Viḍūḍabha cho rằng vua Mahānāma đã
trốn thoát, nên rút quân lên đường, đại binh đến sông Aciravatī vào lúc ban đêm, nên
chia làm hai đội, đóng trại nghỉ tại bờ sông, một đội ngủ trên cồn cát dưới sông, một
đội thì ngủ trên bờ cao. Những người ngủ tại cồn cát mà không tạo ác nghiệp thì bị
kiến cắn thức dậy la lên: “Chỗ tôi nằm bị kiến cắn”, thế là họ lên trên bờ cao mà nằm.
Còn những người nằm ở trên bờ cao mà tạo ác nghiệp nặng cũng bị kiến cắn, họ thức
dậy la rằng: “Chỗ tôi nằm có kiến”, và họ lại đi xuống cồn cát mà nằm. Ngay lúc ấy,
mây đen kéo mù mịt, mưa tuôn như thác đổ, nước sông dâng lên trong nháy mắt, ngập
lụt cả bờ sông, cuốn vua Viḍūḍabha cùng đoàn quân ngủ trên cồn cát đưa luôn ra biển.
Tất cả những người tạo ác trọng nghiệp đều làm mồi cho cá và rùa.
Đại chúng Tỳ khưu đề khởi lời nghị luận rằng:
- Dòng Thích Ca bị diệt vong quả thật là oan uổng, khi không bị bọn người khát
máu, cho rằng dòng Thích Ca đáng bị tru lục, rồi gặp ai chém nấy. Như thế thật là phi
lý bất công.
Đức Bổn Sư nghe được lời đàm thoại của chư Tỳ khưu, bèn dạy rằng:
- Nầy chư Tỳ khưu! Trong kiếp hiện tại, dòng Thích Ca bị diệt vong như thế là
bất xứng, nhưng không có gì oan uổng vì họ chỉ gặt hái cái quả tương xứng với ác
nghiệp mà họ đã tạo ra trong dĩ vãng mà thôi.
- Bạch Ngài! Dòng họ Thích Ca đã tạo nghiệp gì trong dĩ vãng?
- Trong dĩ vãng, họ đã vầy thành đoàn, xuống sông bỏ thuốc độc làm cho cá và
rùa chết thật nhiều, do cộng nghiệp ấy mà dòng Thích Ca phải bị tiêu diệt như vậy.
Qua ngày sau, chư Tỳ khưu lại nhóm trong giảng đường và đề khởi pháp thoại
như vầy:
- Vua Viḍūḍabha hạ sát cả dòng họ Thích Ca, trở về không đến được xứ. Vì nuôi
tham vọng quá mức mà dắt dẫn cả bao nhiêu người đi theo làm mồi cho cá và rùa ở
dưới biển sâu.
Đức Bổn Sư ngự đến giảng đường, phán hỏi rằng:
- Nầy các Tỳ khưu! Các ông đang hội thảo về việc chi vậy?
Chư Tăng đáp: “Bạch Ngài, chuyện như vầy…”.
- Nầy các Tỳ khưu! Cũng như dòng nước lũ ngập lụt cả xóm làng đang mê ngủ,
tử thần bắt những chúng sanh nầy trong lúc họ còn ôm ấp tham vọng chưa thỏa mãn,
cắt đứt mạng căn của họ, nhận chìm họ xuống biển tứ ác đạo vậy.
Nói xong, Đức Bổn Sư thuyết kệ rằng:
“Upasāḷhakanāmānaṃ,
Sahassāni catuddasa;
Asmiṃ padese daḍḍhāni,
Natthi loke anāmataṃ.
Yamhi saccañca dhammo ca,
Ahiṃsā saṃyamo damo;
Etadariyā sevanti,
Etaṃ loke anāmatanti”.
“Một muôn lại với bốn ngàn,
Thổ dân đã rụi xương tàn nơi đây.
Không bao giờ cõi tạm này,
Có nơi bất diệt cho thây phàm trần.
Nơi nào Đạo pháp chánh chân,
Vô não thu thúc, tâm thân tự điều.
Là nơi chư Thánh tiêu diêu,
Nơi ấy bất diệt, nghịch chiều thế gian”.
Dứt hai bài kệ, Đức Bổn Sư thuyết tích Bổn Sanh Upasāḷhaka (Dân xứ). Theo
phong tục, họ đặt thi thể nằm trên đất bằng, mong sao người chết theo dấu ông bà về
xứ bất tử (amata pubbepadesa). Nhưng sự thật, người thường không ai về xứ ấy cả.
Chỉ những bậc chư Đại đức Ānanda mới được viên tịch, theo dấu tiền nhân lên đến
bất tử mà thôi.
Tương truyền rằng: “Lúc được một trăm hai mươi tuổi, Đại đức Ānanda quán
xét thấy thọ mạng của mình sắp hết, bèn báo tin cho thiện tín hay: “Bảy ngày nữa, bần
Tăng sẽ nhập diệt”.
Hay tin nầy, trong số người ở hai bên bờ sông Rohinī, nhóm ở bên bờ này nói
rằng: “Chúng ta hộ độ Đại đức nhiều, chắc là Ngài sẽ viên tịch trên phần đất của ta”.
Nhóm người bên kia sông cũng nói: “Chúng ta hộ độ Ngài nhiều, chắc là Ngài sẽ
viên tịch trên phần đất của ta”.
Đại đức nghe cả hai bên nói giống nhau như thế thì nghĩ rằng: “Thiện tín ở hai
bên bờ sông đều hộ độ cho ta nhiều cả. Nhưng ta không thể chiều ý theo cả hai bên,
nếu ta viên tịch ở bên này thì nhóm cư sĩ ở bên kia sẽ tranh cãi. Do nơi ta mà họ sẽ đối
chọi lẫn nhau. Ta phải làm sao cho họ sẽ vì ta mà chấm dứt mọi tranh chấp”.
Nghĩ rồi, Đại đức bảo hai nhóm thiện tín rằng: “Quý vị ở bờ sông bên này cũng
như quí vị ở bờ sông bên kia, đều là những người có công hộ độ cho ta cả. Ta không
thể nào theo ai mà bỏ ai. Thôi thì quý vị ở bên này hãy tập hợp ở bờ bên ấy, và quý vị ở bên kia hãy tập hợp bờ bên kia”.
(Đến ngày thứ bảy, Ngài ngồi kiết già ở giữa sông, lơ lửng trên từng cao độ bảy
cây thốt nốt mà thuyết pháp cho đại chúng nghe).
Thuyết pháp xong Ngài nguyện: “Xá lợi của ta hãy phân làm hai, một rơi xuống
bờ này, một rơi xuống bờ kia”.
Đoạn Ngài nhập vào hỏa giới, lửa bốc lên có ngọn thiêu nhục thân Ngài. Xá lợi
tự nhiên chia đôi, một phần rơi xuống bờ này, một phần rơi xuống bờ kia.
Đại chúng kêu gào than khóc nghe như mặt đất vô tình cũng vỡ tan từng mảnh,
nấc lên những tiếng ai bi.
Khi Đức Bổn Sư Níp Bàn, quả đất vang rền tiếng than khóc não ruột của đại
chúng trong bốn tháng dài, nghe thật ai bi sầu thảm, mọi người đi lang thang kể lể
rằng: “Đức Bổn Sư Ngài đã Níp Bàn, chúng ta không còn trông thấy ánh từ quang,
không còn được trông thấy kim thân của Ngài đắp y mang bát như thưở tại tiền”.
Dứt tích Bổn Sanh, Đức Bổn Sư phán hỏi Sa di Tissa:
- Nầy Tissa, trong khu rừng nầy có những tiếng cọp, beo gầm thét mà ông không
sợ sao?”.
- Bạch Thế Tôn, chẳng những con không sợ, mà khi nghe tiếng gầm thét của loài
dã thú, con càng vui thích với cảnh lâm tuyền.
Nói rồi Sa di ngâm lên bài kệ trường thiên gồm sáu mươi đoạn mô tả tả phong
cảnh rừng núi.
Khi ấy Đức Thế Tôn phán hỏi:
- Nầy Tissa.
- Dạ bạch Ngài.
- Như Lai sẽ đi với Tăng chúng, còn ông đi hay là trở lại?
- Bạch Ngài. Nếu Thầy Tế độ của con dắt con đi thì con đi, nếu người trở lại thì
con trở lại.
Đức Bổn Sư cùng với Tăng chúng đồng lên đường, ông Sa di đi lui lại tìm thầy
tế độ. Gặp ông, Đại đức hỏi:
- Nầy Tissa, nếu ông muốn trở về chỗ ngụ thì cứ đi.
Ông Sa di Tissa đảnh lễ cáo biệt Đức Bổn Sư và Tỳ khưu Tăng rồi trở lại. Đức
Bổn Sư thì đi luôn về Jetavana.
Trong phòng pháp hội giữa các Tỳ khưu, pháp thoại sau đây được đề khởi:
“Chà! Tội nghiệp ông Sa di Tissa bây giờ tu khổ hạnh quá. Từ ngày ông tục sanh,
song thân ông thiết lập bảy cuộc đại thí cơm trắng nấu với sữa tươi hay mật ông pha
đặc để cúng dường đến năm trăm vị Tỳ khưu. Đến khi ông xuất gia, song thân ông lại
thiết lễ Trai Tăng bảy ngày liền trong chùa, cúng dường cơm trắng này với mật pha
chút ít nước đến Tỳ khưu Tăng có Đức Phật làm tọa chủ. Xuất gia rồi, từ ngày thứ tám
ông vào làng đi bát, trong hai ngày được cúng ngàn bát cơm cùng ngàn bộ y tắm. Qua
ngày sau được thêm ngàn lá y gấm ngự hàn. Đến nay, ông vào cư ngụ trong rừng lại
có lễ lộc phát sanh dồi dào đến cho ông, mà rồi ông cũng xả bỏ tất cả lợi danh như
thế, đi vào rừng sâu ăn cơm trộn lộn trong bát. Thật là ông Sa di tu hành khổ hạnh quá”.
Đức Bổn Sư ngự đến phán hỏi: “Này các Tỳ khưu, hôm nay các ông ngồi thảo
luận việc đó?”.
- Bạch Ngài, chuyện như vậy…
Nghe vậy Đức Bổn Sư dạy rằng:
- Phải đó, nầy các Tỳ khưu, có hai đường lối khác nhau. Con đường thiên về thế
lợi như trên là khác và con đường hành đạo để chứng đạt Níp Bàn là khác. Thật thế,
Tỳ khưu nào cứ mong ước: “Ta sẽ được lễ lộc như thế”, dầu cho có thọ các chi Đầu
đà nhất là ngụ trong rừng mà còn lo gìn giữ lợi danh thì nhất định bốn cảnh ác thú
đang mở rộng chờ đón ông ta. Còn Tỳ khưu muốn đặt bước lên đường Níp Bàn thì xả
bỏ hết lợi danh, lễ lộc, vào cư ngụ trong rừng vắng tinh tấn hành đạo không xao lãng
thì sẽ chứng đắc quả A La Hán chẳng sai.
Đức Bổn Sư kết luận xong, còn thuyết pháp giải rộng thêm những nghĩa lý và
đọc bài kệ này:
Pupphāni h’eva pacinantaṃ, Byāsattamanasaṃ naraṃ; Suttaṃ gāmaṃ mahogho’va, Maccu ādāya gacchati”. | Người nhặt các loại hoa, Ý đắm say, tham nhiễm, Bị Thần chết mang đi, Như lụt trôi làng ngủ. |
Comments